1.
Quyền khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử
Theo khoản 4 Điều 153 Bộ luật Tố tụng Hình
sự 2015 (BLTTHS) “Hội đồng xét xử ra quyết
định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét
xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm”. Thực tiễn, Hội đồng
xét xử hiếm khi ban hành quyết định khởi tố bởi những lẽ sau:
Một là, muốn ra được quyết định khởi tố vụ
án hình sự cần phải tiến hành hoạt động kiểm tra, xác minh các thông tin về tội
phạm. Việc này đòi hỏi phải có thời gian và phải tiến hành nhiều hoạt động khác
nhau, có thể là những hoạt động rất phức tạp, cộng với việc phải xét xử một khối
lượng lớn các vụ án và áp lực phải làm tốt công tác xét xử, hội đồng xét xử ít
quan tâm đến vấn đề này là điều không thể tránh khỏi.Ngoài ra, chức năng chính
của Tòa án là xét xử nên việc ra quyết định khởi tố vụ án ngay tại phiên tòa
gây khó khăn cho chính Tòa án bởi những lí do chuyên môn và nghiệp vụ.
Hai là, giả sử trường hợp quyết định khởi tố
vụ án hình sự của Hội đồng xét xử không có căn cứ, Viện kiểm sát kháng nghị lên
tòa án cấp trên, tòa án cấp trên phải xét lại quyết định này theo thủ tục luật
định. Trường hợp tòa án cấp trên chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát thì quyết
định khởi tố vụ án của hội đồng xét xử sẽ bị hủy bỏ. Điều đó tất nhiên sẽ ảnh
hưởng tới uy tín của hội đồng xét xử đã ra quyết định. Ngược lại, nếu tòa án cấp
trên không chấp nhận kháng nghị của viện kiểm sát, việc có điều tra vụ án, có
truy tố bị can ra tòa án để xét xử hay không vẫn có thể bị viện kiểm sát chi phối
bởi hoạt động kiểm sát điều tra và hoạt động thực hành quyền công tố nhà nước.
Bên cạnh đó, với nhiệm vụ duy nhất được ghi
nhận của Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013 chính là nhân danh nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong quá trình xét xử, các chức năng khác như:
Khởi tố, điều tra, truy tố không phải chức năng của Tòa án. Các chức năng này
được giao cho các cơ quan như Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra… Việc
quy định như vậy, đảm bảo cho Tòa án có điều kiện tốt nhất để thi hành nhiệm vụ
của mình, tập trung xét xử dựa trên những chứng cứ hợp pháp, thông qua hoạt động
xét xử vụ án nhằm đưa ra kết luận ai là người có tội hay không có tội và ai là
người phải chịu hình phạt hay không phải chịu hình phạt... Bên cạnh đó, quy định
này cũng đảm bảo nguyên tắc: “Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, đây là nguyên tắc
cốt lõi của nền tư pháp hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Kiến
nghị: Nhằm tạo điều kiện để tòa án tập trung
hoàn thành tốt chức năng xét xử thì việc bỏ quy định về thẩm quyền khởi tố vụ
án hành sự của hội đồng xét xử trong BLTTHS là điều rất cần thiết. Theo đó, tại
phiên tòa xét xử nếu xác định phát hiện tội phạm mới hoặc người phạm tội mới cần
phải điều tra, hội đồng xét xử yêu cầu viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự.
2.
Công tác thực hiện quyền công tố, kiểm sát của Viện kiểm sát
Tại Khoản 1, Điều 107 Hiến pháp năm 2013 có
quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp” và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng quy định:
“Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, thực hành quyền
công tố là một trong hai chức năng hiến định Viện kiểm sát nhân dân.
Về bản chất, thực hành quyền công tố là hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội
của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự (Khoản 1, Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2014).
Để đảm bảo tính có căn cứ cho quyết định khởi
tố vụ án hình sự, pháp luật quy định một trình tự tố tụng chặt chẽ với trách
nhiệm kiểm sát của Viện kiểm sát. Khoản 2 Điều 154 BLTTHS quy định: “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định đó kèm theo tài liệu liên
quan đến Viện kiểm sát có thẩm quyền để kiểm sát việc khởi tố. Trong thời hạn
24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Tòa án phải gửi quyết định
đó kèm theo tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát cùng cấp.”
Tình trạng chất lượng công tác kiểm sát việc
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND các cấp còn hạn chế,
đó là về mặt nhận thức của lãnh đạo và cán bộ, kiểm sát viên, VKSND các cấp vẫn
còn chưa đầy đủ, toàn diện và chưa thống nhất về những khái niệm liên quan đến
công tác này, dẫn đến việc vận dụng vào thực tiễn còn khác nhau. Hơn nữa một bộ
phận cán bộ tiến hành tố tụng không thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn
và kinh nghiệm nghiệp vụ nên nhiều quy định của pháp luật không được nhận thức
đầy đủ.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự,
Viện kiểm sát phải thực hiện chức năng kiểm sát ngay từ khi khởi tố vụ án hình
sự. Nhưng do không thực hiện kiểm sát được từ đầu nên công tác kiểm sát khởi tố
vụ án hình sự trở nên thụ động, phụ thuộc vào kết quả điều tra của Cơ quan điều
tra nên Viện kiểm sát không kịp thời phát hiện ra các vi phạm pháp luật trong
quá trình điều tra cũng như không chỉ đạo được quá trình điều tra làm cho hoạt
động điều tra có thể sơ sài, qua loa cho xong việc nên vụ án thiếu chứng cứ, vi
phạm pháp luật tố tụng… cho đến khi vụ án kết thúc điều tra chuyển tới Viện kiểm
sát truy tố mới phát hiện được vi phạm phải trả lại yêu cầu điều tra bổ sung. Hạn
chế đó đã làm cho quá trình giải quyết vụ án bị kéo dài. Ngoài ra, trong quan hệ
phối hợp giải quyết án hình sự với Cơ quan điều tra, các Kiểm sát viên vẫn còn
biểu hiện của tư tưởng ngại va chạm, xuôi chiều, để mặc cho Cơ quan điều tra thực
hiện các hoạt động điều tra, nên không sâu sát, kịp thời phát hiện ra các vi phạm
pháp luật, hoặc ỷ lại vào sự chỉ đạo của
cấp trên hay của liên ngành mà các Kiểm sát viên chưa chủ động đề ra các yêu cầu
điều tra, yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm.
Kiến
nghị:
Hoàn thiện các quy định về tiếp nhận thông
tin về tội phạm, kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết thông tin về tội phạm.
Khi phân loại xử lý các nguồn thông tin về tội phạm, ngoài việc phải xác định nội
dung của các nguồn thông tin đó có dấu hiệu của tội phạm hay không thì còn cần
phải xác định hình thức của nó thuộc loại nguồn tin nào để có phương pháp xác
minh, kiểm tra và kiểm sát một cách hiệu quả. Không ngừng nâng cao, trau dồi kiến
thức của lãnh đạo và cán bộ, kiểm sát viên, VKSND các cấp về các vấn đề này.
Để thực hiện chức năng kiểm sát của mình,
Viện kiểm sát phải thực hiện nghiêm túc các quy định trong Bộ luật tố tụng hình
sự để đảm báo thực hiện đúng chức năng của mình. Đem lại sự đúng đắng, tính
công bằng cho vụ án và tránh tình trạng oan sai. Nếu Viện kiểm sát các cấp làm
tốt công tác kiểm sát hoạt động khởi tố vụ án hình sự sẽ hạn chế được số lượng
vụ án, bị can đã khởi tố sau đó phải đình chỉ điều tra vì không có dấu hiệu của
tội phạm.
Ngoài ra, do thái độ, tinh thần trách nhiệm
của một số cán bộ được phân công trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự chưa
cao, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ việc để đánh giá các chứng cứ chứng minh tội
phạm và người phạm tội, các qui trình nghiệp vụ không được coi trọng và thực hiện
đúng quy định.
“Người
tiến hành tố tụng” phải không ngừng rèn luyện ý thức
chính trị. Việc rèn luyện ý thức chính trị phải luôn đi đôi với việc rèn luyện
phẩm chất đạo đức của người cán bộ hoạt động trong lĩnh vực tư pháp. Việc xa rời
rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức của người cán bộ sẽ dễ bị lợi ích vật
chất, tinh thần cám dỗ và đi đến vi phạm pháp luật. Cần có chế tài cụ thể để xử
lý các cán bộ làm việc với thái độ thiếu trách nhiệm, chưa thực hiện đúng quy
trình nghiệp vụ của mình để răng đe. Qua đó, đảm bảo tính minh bạch của pháp luật
và tránh oán sai.
Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.
Nhận xét
Đăng nhận xét