Thứ Năm, 28 tháng 2, 2019

Bị Mất Sổ Bảo Hiểm Xã Hội Thì Làm Thế Nào?

Hiện nay, bảo hiểm xã hội được xem là một chính sách xã hội cần thiết cho người lao động, nó phần nào chia sẻ rủi ro và các nguồn quỹ giúp họ đảm bảo cuộc sống của mình khi có rủi ro xảy ra hay khi đã hết tuổi lao động. Mọi thông tin được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội được thể hiện trên sổ bảo hiểm. Nhưng nếu sổ này bị mất thì phải làm thế nào? Có xin cấp lại được không? Thủ tục xin cấp lại sổ như thế nào? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu vấn đề này qua bài viết dưới đây:
Bị mất sổ bảo hiểm xã hội thì phải làm thế nào?

Sổ bảo hiểm xã hội là gì?

Sổ Bảo hiểm xã hội là tài sản, là quá trình lao động và tích lũy từ mồ hôi, công sức của người lao động, quá trình chắt chiu một phần từ tiền lương để cùng với chủ sử dụng lao động tích góp vào đó để lo cho cuộc sống của mình sau này. Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì sổ bảo hiểm xã hội được cấp cho từng người lao động để nắm bắt được các thông tin, nhằm theo dõi việc thực hiện đóng và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội,
Sổ bảo hiểm xã hội còn là cơ sở để giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội cho người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật, thông qua đó họ biết được mức hưởng của mình. Người lao động phải có trách nhiệm bảo quản sổ bảo hiểm xã hội của mình thật cẩn thận, tránh để hư hỏng, mất sổ… nhằm giúp cho người lao động trong việc thực hiện các quyền lợi về bảo hiểm xã hội.
Để đảm bảo quyền lợi của người lao động, khi sổ bảo hiểm xã hội bị mất, cần phải được cấp lại để chi trả những khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết độ tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.

Hồ sơ xin cấp lại sổ bảo hiểm xã hội

Theo quy định ở điểm a Khoản 2 Điều 97 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 và khoản 1 Điều 27 Quyết định 595/BHXH năm 2017 quy định về việc cấp lại sổ BHXH do mất, hỏng. Với thành phần hồ sơ gồm: Đơn đề nghị cấp lại sổ bảo hiểm xã hội của người lao động; Tờ khai tham gia, điều chỉnh thông tin BHXH, BHYT (Mẫu TK1-TS).
Theo quy định pháp luật, người lao động bị mất sổ bảo hiểm xã hội có thể được cấp lại sổ bảo hiểm xã hội cho người đó. Khi bị mất sổ bảo hiểm xã hội thì người lao động có thể chuẩn bị 01 bộ hồ sơ như sau để được cấp lại sổ bảo hiểm xã hội:
Đơn trình báo mất sổ BHXH có xác nhận của cơ quan công an nơi xảy ra vụ việc hoặc chính quyền địa phương nơi cư trú
Đơn đề nghị cấp lại sổ BHXH (theo mẫu) có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú
Giấy xác nhận quá trình đóng BHXH của cơ quan BHXH liên quan
Giấy xác nhận chưa được giải quyết trợ cấp một lần tại cơ quan BHXH địa phương nơi cư trú
Tờ khai cấp sổ (nếu đã bị mất thì phải liên hệ với đơn vị cũ hoặc cơ quan BHXH nơi cấp sổ để sao y)
Bản sao chứng minh thư nhân dân (có chứng thực)
Thủ tục cấp lại sổ bảo hiểm xã hội bị mất

Thủ tục xin cấp lại sổ bảo hiểm xã hội

Khi hoàn tất hồ sơ xin cấp lại sổ BHXH, người lao động nộp hồ sơ cho cơ quan hoặc nộp thông qua đơn vị nơi đang làm việc theo quy định tại Khoản 2 Điều 99 Luật BHXH 2014 và Điểm c, Khoản 1 Điều 31 Quyết định 595/QĐ-BHXH năm 2017.
Cơ quan BHXH thực hiện đối chiếu hồ sơ cấp lại đối với hồ sơ và dữ liệu do cơ quan BHXH quản lý, nếu đủ diều kiện và xác định người bị mất sổ BHXH chưa hưởng trợ cấp một lần thì thực hiện cấp lại sổ BHXH.
Theo quy định ở khoản 2 Điều 29 Quyết định 595/QĐ-BHXH năm 2017, thời gian cấp lại sổ BHXH không quá 10 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định. Trong trường hợp cần phải xác minh quá trình đóng BHXH ở tỉnh khác hoặc nhiều đơn vị nơi người lao động có thời gian làm việc thì không quá 45 ngày nhưng phải có văn bản thông báo cho người lao động biết.
Như vậy, khi sổ bảo hiểm xã hội bị mất, cần phải được cấp lại, để xin cấp lại sổ này người lao động cần chuẩn bị đầy đủ các thủ tục xin cấp lại sổ bảo hiểm xã hội.
Trên đây là toàn bộ những nội dung về bài viết Bị mất sổ bảo hiểm xã hội thì làm thế nào? Nếu bạn còn có thắc mắc gì trong vấn đề này, hãy liên hệ ngay với công ty của chúng tôi để được hỗ trợ và tư vấn miễn phí.

Thuận Tình Ly Hôn Có Cần Hòa Giải Không?

Theo quy định của pháp luật hiện hành, ly hôn được thực hiện dưới hai hình thức là ly hôn theo yêu cầu của một bên và thuận tình ly hôn. Và một thủ tục quan trọng khi tiến hành ly hôn mà thẩm phán phải thực hiện là hòa giải để hàn gắn hạnh phúc gia đình. Vậy thì đối với trường hợp thuận tình ly hôn có cần hòa giải không? Và thời gian thực hiện ly hôn là bao lâu? Mời các bạn xem bài viết dưới đây của chúng tôi.
Thủ tục hòa giải khi thuận tình ly hôn như thế nào?
Thuận tình ly hôn có cần phải hòa giải không?

Thuận tình ly hôn có cần phải hòa giải không?

Theo quy định của Luật hôn nhân gia đình 2014 thì việc hòa giải cơ sở được khuyến khích khi các bên yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn.
Điều 52 quy định về việc khuyến khích hòa giải ở cơ sở như sau: Nhà nước và xã hội khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. Việc hòa giải được thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
Như vậy, với quy định trên, thì việc hòa giải ở cơ sở là không bắt buộc nhưng được nhà nước khuyến khích. Cơ sở ở đây được hiểu là thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố, cụm dân cư khác như xã, phường, thị trấn.
Theo quy định này, thì hòa giải ở cơ sở là giai đoạn không bắt buộc, có áp dụng thủ tục này không là theo sự thỏa thuận của hai bên vợ chồng.
Khi giải quyết thủ tục ly hôn, hòa giải là thủ tục bắt buộc tại tòa án. Điều này được quy định tại Điều 54 Luật hôn nhân gia đình: Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Như vậy dù là ly hôn đơn phương hay ly hôn thuận tình thì tòa án vẫn tiến hành thủ tục hòa giải, nhằm mục đích hàn gắn lại quan hệ vợ chồng.

Thủ tục hòa giải khi thuận tình ly hôn như thế nào?

Theo quy định tại Điều 397 về hòa giải và công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì:
Thuận tình ly hôn có cần phải hòa giải không?
Thủ tục hòa giải khi có yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn
Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, trước khi tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án.
Thẩm phán phải tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ; giải thích về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha, mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình, về trách nhiệm cấp dưỡng và các vấn đề khác liên quan đến hôn nhân và gia đình.
Trường hợp sau khi hòa giải, vợ, chồng đoàn tụ thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu của họ.
Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212 của Bộ luật này khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
  • Hai bên thực sự tự nguyện ly hôn;
  • Hai bên đã thỏa thuận được với nhau về việc chia hoặc không chia tài sản chung, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con;
  • Sự thỏa thuận phải bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, con.
Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành và các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết. Tòa án không phải thông báo về việc thụ lý vụ án, không phải phân công lại Thẩm phán giải quyết vụ án. Việc giải quyết vụ án được thực hiện theo thủ tục chung do Bộ luật này quy định.

Thời gian giải quyết thuận tình ly hôn mất bao lâu?

Theo quy định của Điều 437 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì thời gian giải quyết khi thuận tình ly hôn cụ thể như sau:
Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý. Trong thời hạn này, tuỳ từng trường hợp mà Tòa án ra một trong các quyết định sau đây:
Thủ tục hòa giải khi có yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn
Thời gian giải quyết thuận tình ly hôn mất bao lâu?
  • Tạm đình chỉ việc xét đơn yêu cầu;
  • Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu;
  • Mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Trường hợp Tòa án yêu cầu giải thích theo quy định tại khoản 1 Điều này thì thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu được kéo dài nhưng không quá 02 tháng. Nếu hết thời hạn này mà Tòa án không nhận được văn bản giải thích của đương sự hoặc của Tòa án nước ngoài thì Tòa án căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ để giải quyết yêu cầu của đương sự.
Tòa án phải mở phiên họp trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Theo đó, thời gian giải quyết thuận tình ly hôn là từ 04 đến 07 tháng tùy từng trường hợp cụ thể.

Hãy truy cập chuyentuvanphapluat.com xem thêm nhiều bài viết khác của chúng tôi.

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2019

Người Bán Vé Số Trong Vụ Giết Người Do Nhầm Là Bắt Cóc Có Thể Bị Khởi Tố Hay Không?

Vụ việc một người cha bị sát hại khi cùng con đi chơi ở công viên tại Long An vì bị hiểu lầm “bắt cóc trẻ em” đang thu hút sự quan tâm của dư luận. Liên quan đến vụ việc này, nhiều nhân chứng vẫn chưa hết bàng hoàng kể lại vụ án đau lòng đã khiến một người cha ra đi mãi mãi. Vậy nguyên nhân cái chết của người cha có phải nguồn cơ bắt đầu tư tiếng truy hô “bắt cóc trẻ em”? Liệu rằng người bán vé số truy hô có thể bị xử hình sự không?
Diễn biến vụ việc Giết người do nhầm lẫn là bắt cóc
Giết người vị hiểu lầm là bắt cóc trẻ em

Diễn biến vụ việc Giết người do nhầm lẫn là bắt cóc

Trước đó, khoảng chiều ngày 21 tháng 02, anh Lê Hoài Bảo (28 tuổi, quê Kiên Giang, hiện đang cư trú tại ấp Sò Đo, thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) dắt con đi chơi tại công viên thị trấn Hậu Nghĩa. Khi anh Bảo và con trai giằng co trong việc gọi con về nhà thì một phụ nữ bán vé số dạo đi ngang qua bất ngờ kêu “bắt cóc trẻ em”.
Nghe truy hô, Nguyễn Ngọc Hải Điền (26 tuổi, ngụ khu B, thị trấn Hậu Nghĩa) đứng gần đó chạy tới ngăn cản. Anh Bảo giải thích hai cha con vui đùa chứ không phải là bắt cóc nhưng vẫn bị người này đánh đập. Sau đó anh Bảo bị đâm tử vong với nhiều vết đâm chí mạng từ con dao do Điền mang theo.

Hành vi la lớn “bắt có trẻ em”

Trong một diễn biến khác, khi mà mọi người đều quan tâm đến việc xử lý hình sự đối với Nguyễn Ngọc Hải Điền thì cũng có nhiều ý kiến cho rằng người phụ nữa truy hô “bắt cóc trẻ em” là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến đối tượng phạm tội phải bị truy cứu.
Danh tính người phụ nữ bán vé số là cụ Dương Thị Gắt (86 tuổi, trú tại thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An). Cụ bà sinh sống trong một căn nhà tình thương xập xệ, chật chội dưới chân cầu vượt thị trấn Hậu Nghĩa cùng cháu ngoại bị tâm thần và cháu cố.
Theo chia sẻ của bà thì chiều đó khi thấy ở công viên có đứa trẻ bị người đàn ông nắm tay lôi kéo lên xe, trong khi đứa trẻ không chịu cứ dùng dằng bỏ chạy. Vì thường nghe nhiều chuyện liên quan đến việc bắt cóc con nít nên bà đã kêu lên với người đàn ông rằng là “bắt cóc con nít”.
Cũng theo đó bà khẳng định rằng mình không hề truy hô “bắt cóc trẻ em” như thông tin báo chí đã đưa. Khi làm việc với cơ quan điều tra Công an tỉnh Long An, cụ cũng khẳng định với lời khai rằng mình không truy hô “bắt cóc trẻ em”.
Theo ghi nhận của những người làm chứng tại khu vực xảy ra vụ án, họ cũng khẳng định rằng họ không nghe thấy tiếng ai truy hô “bắt cóc trẻ em”.
Có thể nhận thấy, khó có căn cứ xử lý đối với cụ Dương Thị Gắt vì người phụ nữ này truy hô bắt cóc không hề có chủ đích muốn hãm hại nạn nhân mà xuất phát từ việc muốn bảo vệ đứa trẻ. Trong hoàn cảnh giằng co giữa hai cha con cùng với việc đứa trẻ phản ứng dữ dội, tạo ra tình huống giống như một vụ bắt cóc. Từ đó tạo ra sự hiểu lầm dẫn đến việc cụ kêu lên với nạn nhân câu hỏi nghi vấn là “bắt cóc trẻ em”.
Việc nạn nhân tử vong nguyên nhân quan trọng trực tiếp là hành vi của Điền, khi chưa xác định được rõ ràng đã có hành vi lỗ mãn với tính chất côn đồ gây ra cái chết cho nạn nhân.
Giết người vị hiểu lầm là bắt cóc trẻ em
Việc khởi tố người phụ nữ đã truy hô bắt cóc trẻ em

Việc truy hô có đủ căn cứ để truy cứu xử lý hình sự?

Từ những phân tích trên, nhận thấy rằng, bà lão truy hô dẫn đến vụ án mạng này là chưa đủ yếu tố để xử lý hình sự. Bởi theo lời khai của bà cùng các nhân chứng, bà lão đã hơn 80 tuổi thấy đứa trẻ khóc la nên nghĩ rằng có hành vi bắt cóc, việc nhầm lẫn này chưa đủ yếu tố xử lý về mặt hình sự. Đồng thời người khống chế và hành hung nạn nhân là nhóm nam thanh niên hoàn toàn đủ nhận thức và hiểu biết để xử lý vấn đề.
Nguyên nhân chính xảy ra vụ việc không phải từ bà lão mà là từ phía nhóm thanh niên. Trong trường hợp đó nhóm thanh niên hoàn toàn có thể chủ động để xử lý theo hướng khác, việc đâm nạn nhân là hành vi không thể chấp nhận được.
Vụ án mạng là một hồi chuông cảnh báo cho tình trạng nắm bắt thông tin thiếu căn cứ xảy ra trong thời gian gần đây, đặc biệt là trên các trang mạng xã hội. Một bài học được rút ra là chúng ta cần phải lưu ý, chắt lọc tiếp cận các thông tin chính xác xung quanh cuộc sống và đặc biệt từ các phương tiện truyền thông. Cần cẩn trọng hơn trong việc lan truyền, chia sẻ các thông tin chưa được kiểm chứng chính xác tránh gây hoang mang dư luận. Hơn nữa, trong một số tình huống cụ thể cần phải bình tĩnh xem xét và xử lý, tránh trường hợp đáng tiếc xảy ra như trên.
Trên đây là những phân tích của chúng tôi về vụ việc “Giết người do nhầm lẫn là bắt cóc”. Mọi thắc mắc cần giải đáp về các vấn đề pháp lý hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn miễn phí.

Hãy truy cập chuyentuvanphapluat.com để xem thêm nhiều bài viết khác của chúng tôi.

Thủ Tục Đăng Ký Thương Hiệu Sản Phẩm

Thủ Tục Đăng Ký Nhãn Hiệu Logo

Thứ Hai, 25 tháng 2, 2019

“Tiền Nhiều Để Làm Gì?” Trong Nội Chiến Pháp Lý Của Gia Đình Trung Nguyên?

Cùng nhau xây dựng nên Tập đoàn cà phê Trung Nguyên hùng mạnh, song hơn 3 năm nay vợ chồng ông Đặng Lê Nguyên Vũ cuốn nhau vào vòng xoáy kiện tụng ly hôn, chia tài sản chung, chưa có hồi kết. Tại phiên tòa ngày 20/1/2019, ông Vũ đã phát ngôn “Tiền để làm gì? Tiền nhiều để làm gì mà để ngày hôm nay ngồi như thế này?” Bản chất của câu nói này có ý nghĩa gì xoay quanh nội chiến pháp lý của gia đinh Trung Nguyên.
Cuộc ly hôn của tập đoàn Trung Nguyên
Diễn biến phiên tòa xét xử ly hôn vợ chồng Trung Nguyên

Diễn biến phiên tòa giải quyết ly hôn của gia đình Trung Nguyên ngày 20/2/2019?

Ngày 20/2/2019, TAND TP.HCM mở lại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn giữa nguyên đơn là bà Lê Hoàng Diệp Thảo (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty cà phê hòa tan Trung Nguyên) và bị đơn là ông Đặng Lê Nguyên Vũ (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn cà phê Trung Nguyên)
Năm 2015, bà Lê Hoàng Diệp Thảo làm đơn khởi kiện xin ly hôn, trong đó đặt cụ thể 3 yêu cầu giải quyết, gồm: xin chấm dứt hôn nhân, đòi quyền trực tiếp nuôi 4 người con chung và chia tài sản chung.
Khi bà Thảo và luật sư đưa ra đề nghị ông Đặng Lê Nguyên Vũ cấp dưỡng cho 4 người con, mỗi người 5% cổ phần trong tổng số cổ phần mà ông Đặng Lê Nguyên Vũ sở hữu tại Tập đoàn Trung Nguyên và các con được kế nghiệp sản nghiệp của gia đình. Ông nói ông không quan trọng 5% hay bao nhiêu, bản thân ông không bao giờ quan tâm về tiền và tài sản cuối cùng ông cũng sẽ cho các con. “Ở đây không có ai vì tiền. Không ai đụng đến tiền. 20 năm nay, số tiền nó lớn lắm. Các ngân hàng chỉ ra trong đây chỉ là bề nổi mà thôi, không phải là bề chìm. Cô phải hiểu điều đó. Không có ai giành tiền. Mẹ, bà nội cũng không còn sống bao nhiêu. Tiền để làm gì? Tiền nhiều để làm gì mà để ngày hôm nay ngồi như thế này?”
Phiên toà diễn ra vẫn chưa có hồi kết vì ông Vũ tuy có phát ngôn không quan tâm tới tài sản nhưng phía bên đại diện ông Vũ lại tính theo chiều hướng chia cổ phần theo tỉ lệ 70:30. Vậy tại sao lại chia như vậy?

Bản chất của cuộc ly hôn giữa vợ chồng Trung Nguyên là vì điều gì?

Nhìn về các sự kiện xảy ra trong cuộc ly hôn giữa vợ chồng Trung Nguyên diễn ra trước đó, cụ thể:
Thứ nhất, ngày 21/3/2018, Tòa kinh tế TAND TP.HCM mở phiên xét xử sơ thẩm vụ kiện dân sự giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần Đầu tư Trung Nguyên (TNH), do ông Đặng Lê Nguyên Vũ là Chủ tịch HĐQT và bị đơn là bà Lê Hoàng Diệp Thảo về hành vi chiếm giữ con dấu của TNH và các công ty thành viên. Tòa yêu cầu bà Thảo trả lại cho Công ty cổ phần Đầu tư Trung Nguyên con dấu và giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà bà Thảo đã chiếm đoạt. Con dấu và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là hai vật quan trong, chứng minh quyền sở hữu, quản lý công ty.
Thứ hai, bà Thảo yêu cầu đưa ông Vũ giám định tâm thần.  Nếu kết quả giám định ông Vũ bị tâm thần thì bà Thảo sẽ là người giám hộ đương nhiên cho chồng mình (theo Khoản 1 Điều 53 Bộ luật Dân sự 2015). Lúc này, bà Thảo sẽ đại diện thực hiện các giao dịch và quản lý toàn bộ tài sản của người được giám hộ, tức là bà có toàn quyền quản lý công ty.
Thứ ba, sau khi Hội đồng xét xử giải thích, hòa giải thì bà Thảo muốn rút đơn ly hôn tại tòa nhưng vẫn yêu cầu Tòa án phải chia tài sản chung.
Thứ tư, bà Thảo yêu cầu được quyền nuôi con và đưa ra đề nghị ông Đặng Lê Nguyên Vũ cấp dưỡng cho 4 người con, mỗi người 5% cổ phần trong tổng số cổ phần mà ông Đặng Lê Nguyên Vũ sở hữu tại Tập đoàn Trung Nguyên và các con được kế nghiệp sản nghiệp của gia đình. Hiện tại, bà Thảo đang sở hữu 30% cổ phần công ty CP đầu tư Trung Nguyên, nếu bà được quyền nuôi con thì bà sẽ quản lý thêm 20% cổ phần trong công ty. Thêm vào đó, ngày 21/2/2019, Luật sư của bà Thảo đưa ra đề nghị Tòa chia cho bà Thảo 51% cổ phần tại công ty Cổ phần đầu tư Trung Nguyên, ông Vũ nhận 49% cổ phần công ty này. Trong khi đó, Công ty CP Đầu tư Trung Nguyên chiếm 70% cổ phần của công ty mẹ. Như vậy ai làm chủ Trung Nguyên Investment sẽ là chủ nhân quyết định của cả Tập đoàn Trung Nguyên.
Từ những phân tích trên cho thấy tiền bạc trong vụ án ly hôn giữa vợ chồng Trung Nguyên không phải là yếu tố quan trọng. Thực chất của vụ ly hôn này là tranh giành quyền nắm giữ và quản lý Tập đoàn Trung Nguyên.
Vụ ly hôn cà phê Trung Nguyên
Bản chất của cuôc ly hôn giữa vợ chồng tập đoàn Trung Nguyên

Vậy yêu cầu chia tài sản của bà Thảo có căn cứ không?

Thứ nhất, theo Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn trong trường hợp hai bên không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định dựa trên nguyên tắc chia đôi tài sản chung nhưng phải xét các yếu tố gồm hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Thứ hai, yêu cầu của bà Thảo về chia tài sản chung là chia tài sản theo tỉ lệ 50:50. Ngoài ra, ngày 21/2/2019, Luật sư của bà Thảo đưa ra phương án mới, đề nghị Tòa chia cho bà Thảo 51% cổ phần tại công ty Cổ phần đầu tư Trung Nguyên, ông Vũ nhận 49% cổ phần công ty này.
Như vậy, xét theo quy định pháp luật, yêu cầu của bà Thảo là có căn cứ.
Tuy nhiên, để xác định chính xác tỉ lệ chia cổ phần bao nhiêu thì cần phải dựa trên các yếu tố công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. Công sức đóng góp của các bên ở đây là 1 vấn đề phức tạp, do đó cần đánh giá một cách khách quan, toàn diện từ nguồn gốc hình thành tài sản cho đến việc duy trì, phát triển tài sản đó.
Tại phiên tòa xét xử, bà Thảo không có chứng cứ chứng minh về việc góp vốn cho Trung Nguyên khi khởi nghiệp bằng một số tiền cụ thể. Trong khi đó, có thể nói cái tên Đặng Lê Nguyên Vũ là linh hồn của thương hiệu cà phê Trung Nguyên. Công sức đóng góp, bản lĩnh và tầm nhìn của ông Vũ gây dựng rất lớn đưa Trung Nguyên vươn xa. Do đó, Tòa án sẽ dựa trên các nguyên tắc phân chia tài sản chung khi ly hôn theo quy định pháp luật để đưa ra phán quyết hợp lý nhất.
Trên đây là những thông tin về cuộc nội chiến pháp lý của gia đình Trung Nguyên. Hy vọng với những thông tin trên, các bạn sẽ có cái nhìn khách quan, tổng quát hơn về vụ án trên.



Xem them các bài viết khác tại: chuyentuvanphapluat.com.

Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2019

Hành Trình Trở Thành Một Luật Sư, Từ Xây Dựng Năng Lực Chuyên Môn Đến Tu Dưỡng Đạo Đức Nghề Nghiệp

Luật sư là một nghề xuất hiện sớm trong lịch sử, tồn tại và gắn liền với luật pháp, tòa án và công lý. Luật sư có thể đảm nhận nhiều loại công việc khác nhau, không chỉ liên quan đến tranh tụng, tư vấn mà còn trong lĩnh vực hành chính, lập pháp, … Việc trở thành luật sư là mơ ước của nhiều người, tuy nhiên điều này không hề đơn giản. Vậy hành trình để trở thành một luật sư gồm những bước nào? Muốn trở thành một luật sư thành đạt thì cần có những yếu tố gì?
Hành nghề luật sư
Hành trình trở thành luật sư

Nghề Luật sư

Tại Điều 2 Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung 2012 quy định: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (được gọi chung là khách hàng)
Nghề luật sư ở Việt Nam là một nghề cao quý, bởi hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm mục đích góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, góp phần phát triển kinh tế, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Tính chuyên nghiệp và đạo đức nghề nghiệp là nền tảng cơ bản của nghề luật sư. Luật sư cần phải có bổn phận tự mình năng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn, nêu gương trong việc tôn trọng, chấp hành pháp luật, tự giác tuân thủ các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt động hành nghề, trong lối sống và giao tiếp xã hội.

Hành trình để trở thành một luật sư

Căn cứ theo Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung 2012, con đường để trở thành luật sư ở Việt Nam như sau:
Bước 1: Học đại học chuyên về ngành luật
Luật sư phải là người có bằng cử nhân luật, để có bằng cử nhân luật phải trải qua 04 năm học tại các trường đại học luật hoặc khoa luật của các trường đại học khác trên cả nước, sau khi tốt nghiệp sẽ được cấp bằng cử nhân.
Bước 2: Học lớp đào tạo nghiệp vụ luật sư
Sau khi có bằng cử nhân luật, người có nhu cầu trở thành luật sư phải đăng ký khóa đào tạo nghề luật sư với thời gian là 12 tháng (Điều 12 Luật Luật sư). Khi hoàn thành chương trình đào tạo sẽ được cấp Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư.
Bước 3: Tập sự tại các văn phòng, công ty luật
Khi đã hoàn thành khóa đào tạo nghiệp vụ luật sư và được cấp Giấy chứng nhận tốt nghiệp, người có nhu cầu trở thành luật sư sẽ tập sự trong thời gian 12 tháng tại các tổ chức hành nghề luật sư như văn phòng luật, công ty luật.
Bước 4: Kiểm tra kết thúc tập sự
Liên đoàn luật sư Việt Nam là đơn vị tổ chức kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. Người đạt yêu cầu kết quả kiểm tra sẽ được Hội đồng kiểm tra cấp Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư.
Bước 5: Cấp chứng chỉ hành nghề luật sư
Người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư có hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư gửi Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư. Sau khi có chứng chỉ hành nghề, luật sư phải đóng phí gia nhập Đoàn luật sư.
Nghề luật sư
Quy tắc đạo đức và ứng xử hành nghề của một luật sư

Quy tắc đạo đức và ứng xử hành nghề của một luật sư

Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư có vai trò quan trọng cùng với pháp luật về luật sư để xây dựng các giá trị chuẩn mực của nghề luật sư, tạo lập niềm tin vững chắc với khách hàng, xã hội và nhà nước. Nghề luật sư ở nước ta đang ngày càng phát triển rộng, đòi hỏi pháp luật cũng như các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề luật sư phải thay đổi phù hợp kể từ đó phát triển đội ngũ luật sư.
Dựa trên cơ sở đặc thù nghề nghiệp luật sư, bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử đã xác định các tiêu chuẩn sau đây:
  • Các tiêu chuẩn chung về mặt đạo đức:
Các tiêu chuẩn này liên quan đến chức năng xã hội của luật sư, với sứ mệnh cao cả là bảo vệ công lý, phát triển kinh tế, góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tuân thủ và trung thành với Hiến pháp, pháp luật; độc lập, ngay thẳng, tôn trọng sự thật và đóng góp và việc phát triển hệ thống pháp luật, tích cực tham gia các hoạt động công ích.
  • Các tiêu chuẩn đạo đức trong quan hệ với khách hàng:
Đây là các tiêu chuẩn quan trọng nhất trong Bộ quy tắc, bởi quan hệ với khách hàng chính là “lửa thử vàng” đối với cá nhân luật sư. Uy tín, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp luật sư. Các tiêu chuẩn này liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của luật sư đối với khách hàng. Bao gồm việc tận tâm thực hiện hết khả năng và trách nhiệm với khách hàng trong khuôn khổ pháp luật cho phép và phạm trù đạo đức nghề nghiệp; tuân thủ bí mật quốc gia và bí mật khách hàng; ngăn ngừa các thủ đoạn hành nghề không lương thiện, tự giác thực hiện các nghĩa vụ trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích, việc nhận thù lao, …
  • Các tiêu chuẩn đạo đức trong mối quan hệ với đồng nghiệp luật sư:
Pháp luật về luật sư có rất ít quy phạm điều chỉnh mối quan hệ này. Bởi vì quan hệ đồng nghiệp, về thực chất là những quan hệ đạo đức, trong đó chủ yếu là thái độ ứng xử với nhau trong giới luật sư. Tiêu chuẩn này đòi hỏi mỗi luật sư phải coi uy tín của đồng nghiệp và uy tín của giới là uy tín của chính mình. Điều mình không muốn thì không được làm với đồng nghiệp.
  • Các tiêu chuẩn đạo đức trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, …
Thực ra, điều chỉnh mối quan hệ này, pháp luật đã có các quy phạm pháp luật điều chỉnh đối với chủ thể – luật sư, với tư cách “Người tham gia tố tụng” hoặc tư cách chủ thể khác tương ứng. Các tiêu chuẩn đạo đức trong phạm vi quan hệ này có ý nghĩa bổ trợ cho thái độ ứng xử của cá nhân luật sư.
  • Các tiêu chuẩn về kỷ luật nghề nghiệp luật sư:
Các tiêu chuẩn này chính là những điều cấm đối với luật sư khi hành nghề. Luật sư sẽ phải chịu các chế tài kỷ luật đối với các hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp luật sư. Áp dụng các biện pháp chế tài này đòi hỏi phải quy phạm hóa các tiêu chuẩn kỷ luật – thuộc chức năng tự quản nghề nghiệp của Liên đoàn theo Điều lệ, làm căn cứ cho việc xử lý kỷ luật đối với từng cá nhân luật sư.
Bài viết là những phân tích của chúng tôi về quá trình để trở thành luật sư và các quy tắc ửng xử, hành nghề mà một luật sư cần có. Hy vọng sẽ giúp ích được cho các bạn đang có nhu cầu cũng như sự quan tâm đối với việc trở thành một luật sư. Mọi thắc mắc cần giải đáp hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn miễn phí.


Xem thêm bài viết tại đây: chuyentuvanphapluat.com.

Theo Luật An Ninh Mạng, Thông Tin Công Dân Được Bảo Vệ Như Thế Nào?

Luật An ninh mạng 2018 được ban hành được xem là một bước đột phá mới trong việc bảo vệ hệ thống thông tin quốc gia, chống các hành vi xuyên tạc, bôi xấu, cung cấp thông tin sai lệch ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và chế độ Nhà nước…  Vậy thì theo Luật an ninh mạng, thông tin công dân được bảo vệ như thế nào? Những bất cập còn tồn đọng trong việc bảo mật thông tin cá nhân như thế nào? Mời Qúy độc giả đến với bài viết sau đây.
Các giải pháp bảo vệ thông tin công dân
Thông tin công dân được bảo vệ như thế nào?

Lợi ích của công dân theo quy định tại Luật An ninh mạng

Với quy định của Luật An ninh mạng, cá nhân được bảo vệ khi tham gia hoạt động trên không gian mạng trước các thông tin xấu, độc, xâm phạm tới danh dự, uy tín, nhân phẩm, các hoạt động tấn công mạng, gián điệp mạng, khủng bố mạng hoặc các hành vi khác gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hạn chế tối đa các yếu tố, nguy cơ xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân như: bị đánh cắp thông tin cá nhân; bị lừa đảo, chiếm đoạt tài sản; bị vu khống, làm nhục, công kích bôi nhọ; hạn chế mã độc; loại bỏ dần các hành vi đánh bạc, cá độ, tuyên truyền văn hóa phẩm đồi trụy kích động bạo lực, mại dâm và các hành vi vi phạm pháp luật khác trên không gian mạng; bảo vệ chặt chẽ dữ liệu cá nhân trên không gian mạng; trẻ em được bảo vệ trên không gian mạng…
Luật không kiểm soát và làm lộ thông tin của công dân. Chỉ khi phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về An ninh mạng, luật mới yêu cầu doanh nghiệp cung cấp thông tin cá nhân có liên quan tới hành vi vi phạm pháp luật đó.
Lực lượng chuyên trách bảo vệ An ninh mạng chỉ được phép tiếp cận thông tin cá nhân của người sử dụng có hoạt động vi phạm pháp luật, với trình tự, thủ tục nghiêm ngặt (bằng văn bản), được các cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân có liên quan phải có trách nhiệm bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng.
Các hành vi như chiếm đoạt, mua bán, thu giữ, cố ý làm lộ, xóa, làm hư hỏng, thất lạc, thay đổi, đưa lên không gian mạng những thông tin thuộc bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư của người khác mà chưa được phép của người sử dụng hoặc trái quy định của pháp luật sẽ bị xử lý.
Lực lượng chuyên trách bảo vệ An ninh mạng nếu lạm dụng, làm lộ thông tin cá nhân của người sử dụng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Các giải pháp bảo vệ thông tin công dân theo Luật an ninh mạng

Xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng như thế nào?
Các giải pháp bảo vệ thông tin công dân
Đồng thời, với Luật An ninh mạng, cá nhân còn được trao công cụ để bảo vệ quyền lợi của mình. Cụ thể, Điều 16 của Luật An ninh mạng quy định về phòng ngừa, xử lý thông tin vi phạm pháp luật trên không gian mạng, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phát hiện, ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin vi phạm pháp luật, cũng như yêu cầu lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng tiến hành các biện pháp bảo vệ an ninh mạng để loại bỏ các thông tin vi phạm pháp luật. Điều này có nghĩa là người dân đã có công cụ rõ ràng hơn để bảo vệ mình khi bị các thông tin xấu xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp.
Điều 17 Luật An ninh mạng sẽ giúp bảo vệ người dân trước các hoạt động gián điệp mạng, bảo vệ bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng. Điều 18 Luật An ninh mạng giúp bảo vệ người dân khỏi các hoạt động tội phạm mạng, như chiếm đoạt tài sản, trộm cắp thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng… Điều 19, Luật An ninh mạng trao công cụ để bảo vệ người dân khỏi hoạt động tấn công mạng, như tán phát mã độc, tấn công từ chối dịch vụ…
Điều 26 của Luật An ninh mạng cung cấp thêm công cụ để bảo vệ người dân khỏi các thông tin xấu độc bằng cách yêu cầu các doanh nghiệp trong và ngoài nước khi cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có trách nhiệm loại bỏ những nguồn phát tán thông tin xấu thông qua việc không hoặc ngừng cung cấp dịch vụ cho những đối tượng này. Đồng thời, giúp bảo vệ thông tin cá nhân, bí mật cá nhân của người dân, tránh bị thu thập và lạm dụng (trường hợp dữ liệu cá nhân người dùng Facebook bị lạm dụng vào hoạt động chính trị). Với việc yêu cầu một số doanh nghiệp nước ngoài đặt chi nhánh, văn phòng đại diện, tức là có pháp nhân tại Việt Nam sẽ giúp người dân có quyền được quản lý, sử dụng và khiếu nại về dữ liệu của mình.
Cùng với đó là việc đảm bảo nguồn nhân lực bảo vệ an ninh mạng thông qua việc tuyển chọn, đào tạo, phát triển nguồn lực bảo vệ an ninh mạng; giáo dục, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ an ninh mạng và phổ biến kiến thức về bảo vệ an ninh mạng cho người dân.

Xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng

Theo quy định tại Điều 9 Luật an ninh mạng về Xử lý vi phạm pháp luật về an ninh mạng thì: Người nào có hành vi vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Lợi ích công dân theo quy định Luật An ninh mạng
Xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng như thế nào?
Như vậy, Luật an ninh mạng ra đời bên cạnh những mặt tích cực như là bảo đảm an toàn thông tin quốc gia, bảo đảm an ninh quốc gia và có khả năng phòng chống tấn công mạng. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều mặt trái như:
Thứ nhất, phạm vi điều chỉnh của Luật An ninh mạng khá rộng, gần như bao quát hết các vấn đề liên quan tới bảo vệ an ninh mạng và các hoạt động trên không gian mạng, bởi vậy dễ trùng lặp về nội dung và chồng chéo về thẩm quyền quản lý nhà nước với các văn bản luật khác đang có hiệu lực như Luật An toàn thông tin 2015, Luật Cơ yếu, Luật Công nghệ thông tin…Như vậy sẽ vô cùng khó khăn và tốn nhiều chi phí để thi hành toàn bộ hệ thống luật trên.
Thứ hai, việc áp dung Luật an ninh mạng sẽ dễ gây lạm quyền của cơ quan nhà nước trong việc quản lý thông tin của cá nhân và có khả năng xâm phạm quyền bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân như thư tín, điện tín, điện thoại hoặc các phương tiện điện tử,.. Bởi lẽ luật quy định chung chung, không cụ thể, phần lớn dựa vào việc giải thích, quyết định của cơ quan, cá nhân thi hành, cho nên vấn đề lạm quyền là không thể tránh khỏi. Do vậy việc thi hành Luật An ninh có thể dẫn đến sự thụt lùi của phát triển internet khi mà  của quyền tự do con người bị thu hẹp nghiêm trọng.
Trên đây là nội dung bài viết của chúng tôi về vấn đề “Theo luật an ninh mạng, thông tin công dân được bảo vệ như thế nào?


Xem thêm bài viết tại đây: chuyentuvanphapluat.com.

Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2019

Diễn Biến Vụ Tạt Axit Và Cắt Gân Chân Ở Quảng Ngãi, Mức Án Nào Đang Chờ Kẻ Thù Ác?

Vụ đôi bạn Việt kiều bị tạt axit rồi cắt gân chân ở Quảng Ngãi đang gây hoang mang, rúng động trong dư luận mấy ngày nay bởi tính chất côn đồ và man rợ của nó. Những vụ tạt axit như thế này đã trở thành nỗi khiếp sợ đến ám ảnh của nhiều người. Vậy diễn biến vụ việc xảy ra như thế nào? Kẻ tạt axit và cắt gân chân phải đối diện với mức án nào?
Tạt axit và cắt gân chân Việt kiều
Diễn biến vụ tạt axit và cắt gân chân ở Quãng Ngãi

Diễn biến vụ tạt axit và cắt gân chân ở Quảng Ngãi như thế nào?

Vào tối 9/2/2019 (mùng 5 Tết), anh Võ Duy Nghiêm (26 tuổi, quê xã Bình Đông, huyện Bình Sơn, đang định cư tại Canada) chạy xe máy chở bạn gái Nguyễn Thị Ngọc Trâm (26 tuổi, quốc tịch Canada) đến một khu du lịch sinh thái thuộc xã Bình Thạnh (Bình Sơn) ăn tối cùng gia đình thì bị hai kẻ bịt mặt tạt axit. Từ camera an ninh của một nhà dân ở xã Bình Thạnh (huyện Bình Sơn), Công an Quảng Ngãi đã thu thập hình ảnh 2 kẻ lạ mặt bịt khẩu trang đã tạt axit, rồi dùng mã tấu chém đứt gân chân anh Nghiêm. Tuy nhiên, do hình ảnh quay tối và mờ nên không thể xác định được gương mặt của tội phạm.
Anh nghiêm được đưa đi cấp cứu ở Bệnh viện Đà Nẵng, được xác định bỏng 80%, còn chị Trâm bị thương nhẹ với vết bỏng ở đùi, tay và bên trái mặt. Đến ngày 15/2, họ được công ty bảo hiểm ở Canada đưa sang một bệnh viện lớn ở Bangkok, Thái Lan điều trị. Theo thông tin mới nhất từ chị Ngọc Trâm cho biết Nghiêm bị bỏng 90% gương mặt, thị lực mắt trái còn 20% và mắt phải 50% và còn phải điều trị lâu dài.

Hành vi của kẻ tạt axit và cắt gân chân có bị truy tố tội Giết người không?

Hành vi của hai đối tượng gây án thật sự hết sức độc ác khi hủy hoại dung nhan, sức khỏe của người bị hại thông qua việc tạt axit vào người và cắt gân chân. Tuy nhiên, theo quá trình điều tra, diễn biến hành vi xảy ra thì do anh Nghiêm bị mất thăng bằng tay lái nên ngã xuống đường, lúc này hai thanh niên lạ mặt mới dừng xe lại rồi rút dao ra cắt gân chân của anh. Nếu hai kẻ tội phạm này có ý định muốn giết người từ trước hoặc nảy sinh ý định giết người ngay lúc đó thì họ đã dùng dao đâm vào những chỗ trọng yếu của cơ thể nạn nhân chứ không phải hành vi trên.
Do đó, có thể thấy các đối tượng có mục đích gây thương tích, dằn mặt người bị hại, không phải mục đích tước đoạt tính mạng của nạn nhân và cũng không gây hậu quả chết người. Như vậy, khó có thể định tội danh Giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 cho hai nghi can trên.
Hình phạt cho kẻ tạt axit ở Quảng Ngãi
Mức án dành cho kẻ tạt axit và cắt gân chân ở Quảng Ngãi

Kẻ tạt axit và cắt gân chân ở Quảng Ngãi phải đối diện với mức án nào?

Hành vi sử dụng axit nguy hiểm để gây thương tích cho người khác của kẻ tạt axit và cắt gân chân nạn nhân ở Quảng Ngãi đã cấu thành tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo điểm b Khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 với mức phạt tù cao nhất là 14 năm tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tỉ lệ tổn thương cơ thể mà nạn nhân phải gánh chịu.
Thêm vào đó, căn cứ Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 thì người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Theo đó, kẻ tạt axit và cắt gân chân của nạn nhân còn phải chịu trách nhiệm dân sự bồi thường trong trường hợp này
Cụ thể, theo Điều 590, Điều 591 Bộ luật Dân sự 2015 thì các khoản phải bồi thường bao gồm: các chi phí về điều trị sức khỏe và  phần tổn thất tinh thần đã gây ra cho những người bị thiệt hại về sức khỏe, tính mạng.
Trên đây là những thông tin của chúng tôi về diễn biến vụ tạt axit và cắt gân chân ở Quảng Ngãi. Chúng tôi sẽ cập nhật những thông tin mới nhất từ vụ án trên.


Xem thêm bài viết tại đây: chuyentuvanphapluat.com.

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ PHÁP LÝ KHI MUA NHÀ HÌNH THÀNH TRONG TƯƠNG LAI

Hiện nay việc mua bán nhà ở hình thành trong tương lai luôn sôi động, vì đây không chỉ đây là kênh sở hữu nhà, tài sản của người dân có nhu cầu, mà còn là kênh đầu tư được nhiều nhà đầu tư khi mua đi bán lại hoặc cho thuê. Nhiều người mua nhà do không nắm được các quy định pháp luật đã bị thiệt hại, thua lỗ .Vì vậy, chúng tôi sẽ cung cấp cho quý bạn đọc một số vấn đề cần biết về pháp lý khi mua nhà hình thành trong tương lai qua nội dung bài viết dưới đây:

Home, money and gavel real estate concept; isolated on white with shallow depth of field

Thứ nhất: Lưu ý khi kí kết hợp đồng mua nhà hình thành trong tương lai

Khi đặt bút ký vào hợp đồng mua bán, hoặc xuống tiền mua nhà tại một dự án nhà ở hình thành trong tương lai, người mua nhà cần quan tâm tới giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của chủ đầu tư, trong đó phải có ngành nghề kinh doanh bất động sản. Văn bản này sẽ đảm bảo chủ đầu tư có đủ cơ sở pháp lý để thực hiện xây dựng và kinh doanh dự án bất động sản hay không.
Tiếp đến, thông qua hồ sơ pháp lý của dự án được cung cấp, người mua cần kiểm tra dự án đó có thuộc diện đã có quyết định thu hồi đất, có thông báo giải tỏa, phá dỡ nhà ở của cơ quan có thẩm quyền hay không. Hồ sơ xác định chủ đầu tư đã hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất, tiền thuế liên quan đến đất. Nhiều khu chung cư hiện nay người dân không thể làm được sổ đỏ vì chủ đầu tư còn nợ nghĩa vụ tài chính với Nhà nước.
Một trong những giấy tờ rất quan trọng khác mà người mua nhà cần phải yêu cầu chủ đầu tư cung cấp là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) hoặc quyền thuê đất của chủ đầu tư. Khi có các giấy tờ này, tức là dự án đã có “đất sạch”, không có tranh chấp.
Giấy tờ tiếp theo người mua cần yêu cầu chủ đầu tư cho xem là giấy phép xây dựng của dự án (với trường hợp phải có giấy phép xây dựng). Nhiều dự án hiện nay xảy ra tình trạng xây dựng không phép và bị đình chỉ thi công, dẫn đến chậm tiến độ dự án.
Các loại giấy tờ này chủ đầu tư luôn phải có sẵn, khi người mua yêu cầu là có thể xuất trình. Từ các giấy tờ chủ đầu tư cung cấp, người mua có thể đối chiếu với thông tin từ các cơ quan có liên quan như Sở Tài nguyên – Môi trường, Sở xây dựng, Sở Quy hoạch – Kiến trúc về dự án đang mở bán.
Gần đây, nhiều nhà đầu tư bất động sản rỉ tai nhau về cách nhận diện cơ sở pháp lý cho dự án định mua, đó là chủ động vay tiền ngân hàng, kể cả khi không có nhu cầu. Lý do là ngân hàng rất chặt chẽ trong cho vay, nên thông qua việc đi vay, người mua có thể “mượn tay” ngân hàng để thẩm định tính pháp lý của dự án định mua.

Thứ hai: Điều kiện để nhà ở hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh

Bên cạnh hồ sơ pháp lý của dự án, trước khi ký hợp đồng mua bán, người mua cũng cần đọc kỹ các điều khoản của hợp đồng và cần lưu lý, người ký hợp đồng phải là người đại diện theo pháp luật hoặc người được người đại diện theo pháp luật của chủ đầu tư ủy quyền (có Giấy ủy quyền hợp pháp).
Theo quy định tại Điều 55, 56 Luật Kinh doanh bất động sản 2014, khi mua bán nhà hình thành trong tương lai phải có đủ các điều kiện như phải có giấy tờ về quyền sử dụng đất, hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; giấy phép xây dựng đối với trường hợp phải có giấy phép xây dựng; giấy tờ về nghiệm thu việc hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương ứng theo tiến độ dự án.
Đối với nhà chung cư, tòa nhà hỗn hợp có mục đích để ở, chỉ được đưa vào kinh doanh khi có biên bản nghiệm thu đã hoàn thành xong phần móng của tòa nhà đó. Thiếu bất kỳ điều kiện nào, người mua nhà phải yêu cầu chủ đầu tư bổ sung để tránh trường hợp việc giao dịch bị vô hiệu.
Việc kinh doanh BĐS hình thành trong tương lai chỉ được thực hiện khi BĐS đáp ứng đầy đủ các điều kiện bắt buộc được đưa vào kinh doanh.
Như phải có giấy tờ về quyền sử dụng đất, hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; giấy phép xây dựng đối với trường hợp phải có giấy phép xây dựng; giấy tờ về nghiệm thu việc hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương ứng theo tiến độ dự án.
Đối với nhà chung cư, tòa nhà hỗn hợp có mục đích để ở, chỉ được đưa vào kinh doanh khi có biên bản nghiệm thu đã hoàn thành xong phần móng của tòa nhà đó. Thiếu bất kỳ điều kiện nào, người mua nhà phải yêu cầu chủ đầu tư bổ sung để tránh trường hợp việc giao dịch bị vô hiệu.

Thứ ba: Vấn đề thanh toán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai

Theo quy định cụ thể tại Điều 57. Thanh toán trong mua bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai-Luật kinh doanh bất động sản thì Việc thanh toán nhà ở hình thành trong tương lai được thực hiện nhiều lần, lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng, những lần tiếp theo phải phù hợp với tiến độ xây dựng bất động sản nhưng tổng số không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao nhà, công trình xây dựng cho khách hàng; trường hợp bên bán, bên cho thuê mua là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số không quá 50% giá trị hợp đồng.
Trên đây là một số thông tin về vấn đề : “Những điều cần biết về pháp lý khi mua nhà hình thành trong tương lai. Tóm lại, trong bối cảnh hoạt động kinh doanh BĐS diễn ra sôi động hiện nay, đối với riêng hoạt động mua bán nhà ở hình thành trong tương lai, người mua nhà cần phải lường trước các rủi ro pháp lý có thể gặp phải. Luật có quy định rõ ràng nhưng việc áp dụng thực tế còn nhiều vấn đề phát sinh do thỏa thuận của các bên hoặc thực hiện theo thông lệ. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách.

Xem thêm bài viết tại đây: chuyentuvanphapluat.com.

Thứ Năm, 21 tháng 2, 2019

Lịch Sử Ra Đời Của Quyền Im Lặng Và Thực Tiễn Áp Dụng Tại Việt Nam

Quyền im lặng là một trong những quyền cơ bản của con người trong tố tụng hình sự. Quyền này được quy định từ rất lâu trong Bộ luật tố tụng hình sự của nhiều nước và có hiệu quả trong việc đảm bảo quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong hoạt động tố tụng hình sự. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về Lịch sử ra đời của quyền im lặng và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam qua bài viết dưới đây:

Lịch sử ra đời của quyền im lặng

Quyền im lặng là gì ?

Quyền im lặng là quyền hợp pháp được công nhận một cách rõ ràng hoặc theo quy ước, trong nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới. Quyền im lặng là quyền của nghi phạm, của người bị kháng cáo trong một vụ án có quyền im lặng. Luật pháp công nhận quyền này căn bản phán xử dựa trên chứng cứ. Theo quyền này, một công dân được mặc định là vô tội cho đến khi các cơ quan pháp luật chứng minh được người đó có tội.
Ngoài ra, quyền im lặng còn có thể được sử dụng ngay trong quá trình tiến hành xét xử. Một bị cáo có thể từ chối trả lời câu hỏi chất vấn của công tố viên hoặc thẩm phán nếu cho rằng việc trả lời sẽ tự làm chứng chống lại chính mình hay tự buộc mình có tội.

Quyền im lặng là gì?

Lịch sử ra đời của quyền im lặng

Mặc dù ban đầu xa lạ với hệ thống tư pháp thẩm tra, quyền im lặng lan rộng khắp lục địa châu Âu. Đến cuối thế kỷ 20, do sự phát triển luật pháp quốc tế mà sự phổ cập ngày càng tăng của một số biện pháp bảo vệ quyền im lặng. Sự ra đời của quyền im lặng đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong nhân loại.
Khi nói về quyền im lặng, người ta thường nhắc đến “Miranda warning” bắt nguồn từ vụ Miranda. Quyền im lặng có thể hiểu “Anh có quyền giữ im lặng và từ chối trả lời câu hỏi. Bất cứ điều gì anh nói cũng sẽ được dùng để chống lại anh trước tòa.” Trước án lệ Miranda, các Tòa án Hoa Kỳ thường đánh giá lời khai của nghi phạm được thu thập trong phòng thẩm vấn của cảnh sát dựa trên trình tự tố tụng công bằng nhưng án lệ Miranda 1966 đã chuyển trọng tâm của các tiêu chí đánh giá lời khai sang quyền im lặng.
Tháng 6/1963, Miranda ra tòa với tội danh cướp và hiếp dâm bị tuyên phạt 30 năm tù. Tháng 4/1965, Tòa án Tối cao Arizona tái khẳng định bản án sơ thẩm. Quyết định này thu hút sự chú ý của luật sư nổi tiếng Robert J.Cocoran, ông thừa biết cảnh sát dễ dàng có được lời nhận tội ngay từ ban đầu từ những nghi phạm không biết đầy đủ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Cocoran gọi điện cho John J.Flynn đề nghị nhận bào chữa vụ Miranda. Flynn đồng ý và nhờ John P.Frank giúp đỡ.
Sáng 28/2/1966 John Flynn có hai nhiệm vụ. Trước tiên, phải thuyết phục được 9 thẩm phán rút ra một kết luận rằng hầu hết công dân Mỹ đang ở trong tình thế bất lợi về pháp lý nếu họ bị cảnh sát truy xét. Thứ hai, John Flynn muốn các thẩm phán tập trung vào vấn đề công dân được cảnh báo vào lúc nào.
Bốn tháng sau, Chánh án Tòa án Tối cao Mỹ Earl Warren viết trong phán quyết rằng một người bị bắt giữ trước khi bị thẩm vấn phải được thông báo rõ ràng rằng họ có quyền giữ im lặng và bất kỳ điều gì người đó nói ra sẽ được sử dụng để chống lại người đó trước tòa. Phán quyết cũng khẳng định rằng chỉ khi nghi phạm được thông báo rõ ràng và dứt khoát về quyền hiến định của họ trước khi thẩm vấn thì những lời khai của họ mới được chấp nhận.

Thực tiễn áp dụng quyền im lặng tại Việt Nam

Hiện nay, ở Việt Nam chưa có quy định cụ thể về “quyền im lặng”. Tuy nhiên, có một số quy định gián tiếp trong một số điều ở Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được hiểu chung là quyền im lặng.
Tại Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, lần đầu tiên quyền im lặng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được ghi nhận; Cụ thể, theo quy định tại điểm e khoản 1 điều 58, điểm c khoản 2 điều 59, điểm d khoản 2 Điều 60 và điểm h khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, các bị can, bị cáo, người bị tạm giữ và người bị bắt khẩn cấp có quyền trình bày lời khai, ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội
Có thể thấy, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự chủ trong việc khai báo; “trình bày lời khai” là quyền chứ không phải nghĩa vụ bắt buộc. Theo đó, họ có thể trình bày lời khai hoặc không. Việc không trình bày lời khai thể hiện ở việc im lặng trước cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng không có quyền ép buộc người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải khai báo bằng các biện pháp không hợp pháp.
Như vậy, có thể hiểu rằng người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoàn toàn có quyền im lặng. Việc họ không trả lời cơ quan, người tiến hành tố tụng những điều bất lợi cho bản thân sẽ không bị coi là tình tiết tăng nặng.
Quyền im lặng được quy định từ lâu trong Bộ luật tố tụng hình sự và đã được đảm bảo thực thi ở nhiều nước như Mỹ, Canada, Liên minh châu Âu, Trung Quốc, … trong đó có cả Việt Nam. Trên đây là bài viết về Lịch sử ra đời của quyền im lặng và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam. Nếu có góp ý hay cần tư vấn thêm, quý khách hàng hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi để được tư vấn miễn phí.


Xem thêm các bài viết khác tại đây: chuyentuvanphapluat.com.

Thứ Ba, 19 tháng 2, 2019

Chiến Tranh Biên Giới Việt – Trung Năm 1979 Và Thực Trạng Biên Giới Biển Đảo Việt Nam Hiện Nay

Xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Vậy thì từ chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979 và thực trạng biên giới biển đảo Việt Nam hiện nay đã nói lên những gì? Việt Nam đã, đang và sẽ làm gì cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nay? Mời Qúy độc giả đến với bài viết sau đây:
Thực trạng biên giới biển đảo Việt Nam hiện nay
Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979

Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979

Chiến tranh biên giới 1979 là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Rạng sáng ngày 17/2/1979, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã điều động một lượng lớn quân đội và vũ khí hiện đại nhất tấn công vào 6 tỉnh biên giới phía bắc nước ta.
TQ đã huy động 60 vạn quân, tấn công trên toàn tuyến biên giới từ Quảng Ninh đến Phong Thổ dài trên 1.000 km, tập trung vào 3 khu vực Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai với Lào Cai là trọng điểm. Ngoài ra TQ còn mang theo mấy trăm máy bay, và một số tàu chiến thuộc hạm đội Nam hải sẵn sàng tham chiến khi cần thiết.
Có thể chia cuộc chiến làm hai giai đoạn:
•             Giai đoạn tấn công: thời gian 17 ngày (từ 17/2 đến 5/3/1979):
Ngày 17/2-19/2: Quân đội TQ đột kích trên toàn tuyến biên giới dài trên 1.000 km chiếm một số vị trí tiền duyên của ta. Ngày 20/2: Chiếm thị xã Lào Cai, thị trấn Đồng Đăng. Ngày 21/2: Chiếm thị xã Cao Bằng. Ngày 22/2: Chiếm thị trấn Bảo Lộc. Ngày 23/2: Chiếm thị xã Hà Giang. Ngày 24/2: Chiếm thị trấn Cam Đường. Các ngày sau đó 2 bên đánh nhau dữ dội tại vùng gần Lạng Sơn, Sapa. Ngày 5/3 TQ chiếm Sapa và một phần thị xã Lạng Sơn.
Ngay trong ngày hôm đó (5/3), TQ tuyên bố đã đạt mục đích, bắt đầu rút quân khỏi VN. VN tuyên bố tổng động viên toàn quốc. Một sư đoàn chính quy VN điều từ Campuchia và Lào đã về tới sát mặt trận. Liên Xô bắt đầu tăng quân tới biên giới Trung Xô.
•             Giai đoạn rút lui: thời gian 10 ngày (từ 6/3 đến 16/3/1979):
Kể từ lúc quân đội TQ rút lui, bộ đội VN không tấn công, truy kích địch. Quân TQ bắt đầu rút khỏi một phần của thị xã Lạng Sơn từ 5/3, đến 12/3 rút hết khỏi Đồng Đăng. Bắt đầu rút khỏi vùng Lào Cai từ 7/3 đến 13/3 thì rút hết; ở Cao Bằng từ 7/3, đến 14/3 thì rút hết. Ngày 16/3/1979 TQ tuyên bố hoàn thành việc rút quân, chiến tranh kết thúc.
Phía Quân đội Việt Nam cũng đã phản kích đánh vào hai thành phố biên giới của Trung Quốc là Malipo và Ninh Minh. Sau đó rút quân về biên giới để phòng thủ. Ngày 1/3/1979, AFP và Tân Hoa Xã đều xác nhận có một cuộc đột kích “cảm tử” vào phi trường Ninh Minh trong tỉnh Quảng Tây, cách xa biên giới 40 km.
Xung đột vũ trang tại biên giới giữa hai nước vẫn còn tiếp diễn thêm hơn mười năm. Tới năm 1991, Quan hệ ngoại giao Việt–Trung mới chính thức được bình thường hóa.

Thực trạng biên giới biển đảo Việt Nam hiện nay

Hiện nay, tình hình quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta khá phức tạp, hàm chứa nhiều nhân tố bất ổn, đó là: tranh chấp ở Biển Đông ngày càng diễn biến phức tạp, tác động và ảnh hưởng đến an ninh, hòa bình và phát triển của đất nước ta. Cụ thể, Trung Quốc đã có nhiều hành động xâm phạm nghiêm trọng lãnh thổ Việt Nam, thực hiện nhiều hoạt động trái phép làm leo thang căng thẳng Việt-Trung như: đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào khu vực Biển Đông gần quần đảo Hoàng Sa vào ngày 1 tháng 5 năm 2014, có nhiều hoạt động lấn chiếm lãnh hải, bồi đắp đảo trái phép, xây dựng sân bay, thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” và triển khai các hoạt động trong khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tập trận trên biển đông năm 2018…
Tình hình khu vực và thế giới diễn biến nhanh chóng, khó lường, xuất hiện nhiều nhân tố mới có tác động sâu sắc đến trật tự và cục diện thế giới, tác động trực tiếp đến phát triển tình hình ở khu vực Biển Đông; sự phối hợp, thống nhất về nhận thức và hành động trong nhân dân và một số cán bộ về vấn đề chủ quyền biển, đảo còn chưa cao, dẫn đến khó khăn trong chỉ đạo, điều hành; các thế lực phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước lợi dụng vấn đề biển, đảo để chống phá Đảng và Nhà nước ta; kinh nghiệm quản lý biển, đảo của chúng ta còn hạn chế, năng lực, trang thiết bị của các lực lượng thực thi pháp luật trên biển cần tiếp tục được củng cố và tăng cường.
Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979
Thực trạng biên giới biển đảo Việt Nam hiện nay

Các biện pháp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ

Về công tác bảo vệ chủ quyền biên giới, hải đảo, Việt Nam đã tiền hành nhiều hoạt động ngoại giao như đàm phán, thương lượng… và xây dựng, củng cố nền kình tế, chặt chẽ trong công tác pháp luật. Tuy nhiên, những biện pháp này chưa thiết thực, chưa thực sự mang lại hiệu quả như mong đợi. Cụ thể:
•             Luật cảnh sát biển 2018 có hiệu lực 01/07/2019 nâng cao vị thế của 1 lực lượng chức năng bảo vệ biển đảo tổ quốc
Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Cảnh sát biển (CSB) Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2019. Đây là đạo luật có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, quy định những hoạt động của lực lượng CSB, nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 8 về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Theo đó, CSB Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước, làm nòng cốt thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển.  Luật CSB Việt Nam ra đời tiếp tục thể hiện tuyên bố mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta về quyết tâm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp pháp luật quốc tế.
•             Nỗ lực tham gia đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc về việc xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) vẫn chưa mang lại kết quả.
Ngày 06-8-2017, tại Ma-ni-la (Phi-líp-pin), Bộ trưởng Ngoại giao các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á  và Trung Quốc đã chính thức thông qua Dự thảo khung Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Đây là văn kiện thể hiện bước tiến quan trọng trong tiến trình hướng tới quản lý xung đột ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc. Mặc dù còn nhiều vấn đề cần phải bàn bạc, bổ sung, song việc ASEAN và Trung Quốc thông qua Dự thảo khung này là cơ sở, tiền đề quan trọng cho tiến trình quản lý, giải quyết tranh chấp, xung đột ở Biển Đông để hướng tới hoàn tất một COC có hiệu lực và ràng buộc về pháp lý, góp phần duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực. Đây là điều mà nhiều quốc gia thành viên ASEAN mong muốn. Thông qua sự kiện quan trọng này, dư luận quốc tế bày tỏ sự ủng hộ một văn kiện COC mang tính ràng buộc về pháp lý và điều quan trọng là COC cần sớm được hoàn thành và có hiệu lực trong thực tế.
•             Tổ chức buổi Đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc ngày 14/01/2019 tại Lào Cai, tuy nhiên không mang lại kết quả thiết thực.
Ngày 14-1, tại Lào Cai đã diễn ra Đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc và Cuộc gặp giữa hai Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc.
Về vấn đề biên giới lãnh thổ, hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng và kết quả hai bên đã đạt được trong khuôn khổ đàm phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ nhằm triển khai các thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước, kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Về vấn đề trên biển, hai bên khẳng định tuân thủ nghiêm túc nhận thức chung quan trọng giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước và “Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc”, nhất trí thúc đẩy giải quyết vấn đề trên biển phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982; kiểm soát tốt bất đồng, xử lý thỏa đáng các vấn đề trên biển, không làm phức tạp tình hình, thúc đẩy hợp tác phù hợp, cùng nhau gìn giữ hòa bình, ổn định trên biển.
Phía Việt Nam đã bày tỏ quan ngại về một số diễn biến phức tạp trên biển Đông trong thời gian qua không có lợi cho hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực.
Đồng thời, hai bên nhất trí tiếp tục cùng các nước ASEAN thực hiện toàn diện và hiệu quả “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc” (DOC), sớm đạt được COC thực chất, hiệu quả, góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở biển Đông.
•             Việt Nam kiên quyết phản đối mọi hành động xâm phạm chủ quyền tại biển Đông.
Đối với các hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc ở biển Đông, phía người phát ngôn Bộ Ngoại giao luôn nhận định rằng:
Hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền biển đảo Việt Nam là đi ngược lại Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc; vi phạm tinh thần Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), gây phức tạp tình hình, không có lợi cho quá trình đàm phán hiện nay giữa Trung Quốc và ASEAN về Bộ Quy tắc Ứng xử giữa các bên ở Biển Đông (COC) và việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông. Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.
Thực trạng biên giới biển đảo Việt Nam hiện nay
Các biện pháp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Việt Nam yêu cầu Trung Quốc không để tái diễn các hoạt động tương tự, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tôn trọng nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước cũng như luật pháp quốc tế, không có hoạt động gây gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình ở khu vực.
•             Dự án đặc khu kinh tế Việt Nam
Dự án đặc khu kinh tế là ý kiến định hướng của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam về việc thành lập các đặc khu hành chính – kinh tế tại Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên Giang) để thu hút đầu tư; Chính phủ đã chỉ đạo soạn thảo dự án Luật đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt (gọi tắt là đặc khu – NV) trình Quốc hội xem xét. Dự thảo này cho phép các nhà đầu tư ngoại quốc mướn đất cho tới 99 năm tại các khu kể trên. Việc xây dựng đặc khu kinh tế mang lại nhiều lợi ích như phát triển kinh tế, ngoại giao…Tuy nhiên cũng tiền ẩn nhiều rủi ro. Do đó, cần xem xét kỹ lưỡng dự thảo luật đặc khu kinh tế trước khi ban hành để tránh hệ lụy về sau.
Chủ trương phát triển kinh tế là tốt, tuy nhiên một nền kinh tế phát triển đi đôi vứi sự tự chủ về chủ quyền mới thật sự hoàn hảo. Vì vậy, Việt Nam cần cố gắng, nỗ lực hơn nữa để bảo đảm về tăng trưởng kinh tế và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Trên đây là bài viết của chúng tôi về vấn đề “ Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979 và thực trạng biên giới biển đảo Việt Nam hiện nay”.
Chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật các nội dung về kinh tế, chính trị, những vấn đề nóng hổi của xã hội trong thời gian tiếp theo. Mới Qúy bạn  đọc cùng theo dõi. 


Xem thêm các bài viết khác tại đây: chuyentuvanphapluat.com.

Thứ Hai, 18 tháng 2, 2019

Mức Án Nào Đang Chờ Đợi Nhóm Hung Thủ Hiếp, Giết Nữ Sinh Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên ?

Những ngày qua, cộng đồng mạng đã dậy sóng với một vụ án hết sức phức tạp đã lấy đi sinh mạng của một cô gái trẻ, đó là vụ án sát hại thiếu nữ giao gà 30 Tết ở Điện Biên. Cho đến hiện tại, Cơ quan điều tra đã ra lệnh bắt 5 đối tượng liên quan đến vụ án trên. Vậy thì mức án nào đang chờ đợi nhóm hung thủ hiếp, giết nữ sinh đại học Nông lâm Thái Nguyên?
Kết quả điều tra của cơ quan điều tra công an
Mức án nào đang chờ đợi nhóm hung thủ

Toàn cảnh vụ án sát hại thiếu nữ giao gà                                 

Chiều 4/2 (tức 30 Tết), Cao Mỹ Duyên chạy xe máy mang 13 con gà đến giao cho một người đàn ông mua hàng qua điện thoại rồi mất tích. 2 ngày sau, xe máy của nạn nhân được tìm thấy tại xã Noong Luống, huyện Điện Biên, cách nơi Duyên bán hàng 20km.
Một ngày sau, thi thể cô gái được phát hiện tại căn nhà hoang ở xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên. Khi được tìm thấy, nạn nhân chỉ mặc áo thu đông và quần lót. Kết quả khám nghiệm xác định nữ sinh 22 tuổi tử vong do bị siết cổ.

Kết quả điều tra của cơ quan điều tra

Ngày 10/2, cảnh sát đã bắt nghi phạm Vương Văn Hùng tại nhà họ hàng ở huyện Điện Biên. Khám xét tại chỗ, cảnh sát thu giữ giấy tờ xe máy, điện thoại di động của nạn nhân và sim điện thoại nghi phạm sử dụng để liên hệ mua gà chiều 30 Tết. Tại cơ quan công an Vương Văn Hùng đã khai Bùi Văn Công là đồng phạm trong việc sát hại nạn nhân Cao Mỹ Duyên.
Ngày 17/2 Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên vừa khởi tố, bắt tạm giam thêm 4 nghi phạm liên quan vụ sát hại nữ sinh giao gà dịp Tết. 4 bị can vừa bị khởi tố gồm: Bùi Văn Công, Phạm Văn Nhiệm, Lường Văn Lả và Lường Văn Hùng, cùng ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Trong số này, Lả là người vừa bị bắt chiều 17/2 khi có dấu hiệu lẩn trốn. Còn Bùi Văn Công là chủ xe tải 1,25 tấn có dính vết máu nạn nhân.
Với việc bắt giữ nghi phạm Vương Văn Hùng trước đó, như vậy Công an tỉnh Điện Biên đã khởi tố 5 người liên quan đến vụ án nữ sinh Cao Mỹ Duyên bị sát hại. Nhóm này đều nghiện ma túy, có dấu hiệu lên kế hoạch dụ nạn nhân Cao Mỹ Duyên mang gà đến một địa điểm vắng người để gây án.
Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định khởi tố bổ sung 5 tội danh đối với các bị can gồm: Giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, tàng trữ trái phép chất ma túy và bắt giữ người trái pháp luật.
Chiều 17/2, Công an tỉnh Điện Biên phối hợp cùng Viện Khoa học hình sự – Bộ Công an đã khai quật để tiếp tục khám nghiệm thi thể nữ sinh Cao Mỹ nhằm củng cố, xác minh lời khai của bị can và nghi phạm.
Mức án nào đang chờ đợi nhóm hung thủ
Kết quả điều tra của cơ quan điều tra công an
Với chứng cứ thu thập, cơ quan chức năng nhận định nạn nhân tử vong 5-10 giờ trước khi được tìm thấy vào sáng 7/2 (tức mùng 3 Tết). Điều đó, cho thấy việc nghi phạm khai giết nữ sinh năm cuối đại học hôm 30 Tết là không chính xác.
Ngoài ra, việc cơ quan điều tra khởi tố bổ sung tội hiếp dâm cho thấy nạn nhân có dấu hiệu bị xâm hại tình dục.

Mức án nào đang chờ đợi nhóm hung thủ giết thiếu nữ giao gà?

Với việc cơ quan điều tra khởi tố bổ sung 5 tội danh với các bị can gồm: Giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, tàng trữ trái phép chất ma túy và bắt giữ người trái pháp luật thì bản án mà các bị can nhận lấy là rất lớn khi tổng hợp hình phạt tất cả các tội trên.
Theo đó, tất cả những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm hình sự chung về toàn bộ tội phạm đã xảy ra. Mọi đồng phạm trong vụ án đều phải chịu trách nhiệm về tình tiết tăng nặng nếu có.
Bên cạnh đó, còn xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.
Thứ nhất, về tội giết người. Đây là vụ giết người có tổ chức, đó là một tình tiết định khung tăng nặng. Do đó, các đối tượng có tham gia sẽ bị xử lý theo khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự với hình phạt cao nhất lên đến chung thân hoặc tử hình.
Tiếp theo về tội cướp tài sản. Theo như lời khai của Vương Văn Hùng thì họ có ý định giết Cao Mỹ Duyên để cướp tài sản. Do đó, họ phạm phải tội cướp tài sản với tình tiết định khung tăng nặng là có tổ chức chặt chẽ. Hơn nữa, còn tùy vào chứng minh của cơ quan điều tra mà mức án mà các đối tượng nhận được có thể lên đến mức chung thân.
Ngoài ra việc bắt giữ nạn nhân là hành vi bắt giữ người trái pháp luật và có tổ chức nên những người tham gia sẽ cấu thành tội bắt giữ người trái pháp luật theo quy định tại Điều 157 Bộ luật hình sự.
Hiện cơ quan điều tra xác định có dấu hiệu của tội hiếp dâm. Nếu như nhiều người hiếp một người và việc này có tổ chức thì đối tượng tham gia còn nhận thêm tội Hiếp dâm theo quy định tại Điều 141 và có tình tiết định khung tăng nặng.
Toàn cảnh vụ án sát hại thiếu nữ giao gà
Nhóm hung thủ giết thiếu nữ giao gà 30 Tết
Hơn nữa, các đối tượng đều nghiện ma túy, từng có tiền án tiền sự, riêng Vương Văn Hùng đã có ba tiền án; Bùi Văn Công cũng là người nghiện ma túy và có nhiều vi phạm pháp luật. Trong quá trình điều tra, các đối tượng có thái độ ngoan cố, quanh co, chối tội. Trong việc thực hiện hành vi phạm tội, các đối tượng cũng đã có sự chuẩn bị kỹ càng, việc che giấu hành vi phạm tội rất tinh vi và đã được tính toán từ trước. Các tình tiết trên là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với họ.
Theo đó, sẽ tiến hành tổng hợp các mức án đối với các tội trên, có thể thấy đây là những tội phạm được tổ chức chặt chẽ, do đó mức án mà họ phải nhận có thể lên đến chung thân, tử hình. Theo Điều 55 Bộ luật hình sư thì nguyên tắc tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội như sau: Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:
  • Đối với hình phạt chính:
Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;
Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;
Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân;
Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình;
Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;
  • Đối với hình phạt bổ sung:
Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;
Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.
Trên đây là bài viết của chúng tôi về vấn đề “Mức án nào đang chờ đợi nhóm hung thủ hiếp, giết nữ sinh đại học Nông Lâm Thái Nguyên?”. Chúng tôi sẽ liên tục cập nhật những thông tin xoay quanh vụ án trên ngay khi có thông tin từ cơ quan điều tra và những thông tin nóng hổi khác. Mời Qúy bạn đọc cùng theo dõi.                                                                                                    


Xem thêm các bài viết khác tại đây: chuyentuvanphapluat.com.

Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2019

Mang Thai Có Phải Là Một Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự ?

Mới đây, TAND cấp cao tại Đà Nẵng vừa xét xử phúc thẩm đã giảm án cho H.D.N.Q (trú tại Phú Yên) từ 13 năm tù xuống còn 12 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lý do là bị cáo kháng cáo và cung cấp thông tin mình đang mang thai sau khi phạm tội và trước khi xét xử sơ thẩm . Vậy thì mang thai có phải là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự? Mời Qúy bạn đọc đến với bài viết sau đây.
Khi nào mang thai được hoãn thi hành án phạt tù?
Mang thai có phải là một tình tiết giảm nhẹ TNHS?

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Bộ luật hình sự

Theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bao gồm:
  • Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
  • Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
  • Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
  • Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
  • Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
  • Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
  • Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
  • Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
  • Phạm tội do lạc hậu;
  • Người phạm tội là phụ nữ có thai;
  • Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
  • Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
  • Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
  • Người phạm tội tự thú;
  • Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
  • Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
  • Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
  • Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
  • Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Mang thai có phải là một tình tiết giảm nhẹ TNHS?
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

Mang thai được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi nào?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 52 thì mang thai là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên không phải lúc nào mang thai cũng sẽ giảm nhẹ mà phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Cụ thể:
Mang thai được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi người phụ nữ đang có thai khi thực hiện tội phạm hoặc trong giai đoạn xét xử. Người phụ nữ phải chứng minh là mình có thai khi phạm tội. Trong trường hợp chưa có đủ căn cứ để kết luận người phụ nữ có thai khi phạm tội thì phải căn cứ vào kết luận của cơ quan chuyên môn y tế hoặc kết luận giám định.
Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào thời kỳ mang thai, ảnh hưởng của tình trạng thai nhi đến việc thực hiện tội phạm của bị cáo.

Khi nào mang thai được hoãn thi hành án phạt tù?

Mang thai là tình tiết giảm nhẹ TNHS khi nào?
Khi nào mang thai được hoãn thi hành án phạt tù?
Theo quy định tại Điều 67 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 về hoãn thi hành án phạt tù thì: phụ nữ mang thai được hoãn thi hành án phạt tù khi đã có quyết định cuối cùng của Tòa án về tội phạm, tức là khi đã nhận án phạt tù và quyết định đó chưa được thi hành. Do đó, tùy trường hợp phụ nữ mang thai trong giai đoạn nào sẽ áp dụng các quy định hoãn hay là tình tiết giảm nhiệm trách nhiệm hình sự cho phù hợp.
Người bị xử phạt tù nếu có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng, đồng thời sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật nghiệm trọng, không có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn và thuộc một trong các trường hợp sau đây thì được hoãn chấp hành hình phạt tù: là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi (không phân biệt là con đẻ hay con nuôi), nếu họ bị xử phạt tù lần đầu. Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù mà người bị kết án lại có thai hoặc phải tiếp tục nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì vẫn được hoãn cho đến khi đứa con sau cùng đủ 36 tháng tuổi.
Trên đây là bài viết của chúng tôi về vấn đề “Mang thai có phải là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”.
Chúng tôi sẽ liên tục cập nhật những tin tức mới nhất về những sự kiện pháp lý nóng hổi xảy ra hằng ngày, cũng như những phân tích về các sự kiện đó, mời Qúy bạn đọc cùng theo dõi.


Xem thêm các bài viết khác tại đây: chuyentuvanphapluat.com.