1. Trước
khi Luật Thi hành Tạm giữ, Tạm giam 2015 có hiệu lực
Theo quy định tại Điều 88 của Bộ luật tố tụng hình sự
2003, tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với bị
can, bị cáo trong tố tụng hình nhằm để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có
căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét
xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người
có thẩm quyền. Bên cạnh đó, tại Điều 89 cũng quy định về chế độ tạm giữ, tạm
giam, theo đó nơi tạm giữ, tạm giam chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia
đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Căn cứ theo Điều 21 Văn bản hợp nhất số 13/VBHN-BCA có hiệu
lực ngày 07/04/2014 có quy định: Để tiến hành các hoạt động quy định tại khoản
1 Điều này ở bên trong khu vực nhà tạm giữ, trại tạm giam. Trong trường hợp đó,
Trưởng Nhà tạm giữ, Giám thị Trại tạm giam căn cứ vào quyết định phân công thụ lý vụ án, văn bản của cơ quan đang thụ lý vụ
án đồng ý cho thân nhân, luật sư, người bào chữa khác, đại diện cơ quan, tổ
chức nước ngoài thăm gặp, tiếp xúc với người bị tạm giữ, tạm giam để quyết định
đưa người bị tạm giữ, tạm giam ra khỏi buồng giam, giữ.

Căn cứ theo Điểm c, Khoản 1 Điều 21của Văn bản này có quy
định Việc trích xuất người bị tạm giam, tạm giữ để tiến hành các hoạt động ở
bên ngoài khu vực Trại tạm giam, Nhà tạm giữ trong trường hợp cho gặp thân
nhân, luật sư hoặc người bào chữa khác. Quy chế chỉ rõ, trưởng nhà tạm giữ,
giám thị trại tạm giam yêu cầu cán bộ thực hiện lệnh trích xuất giao đầy đủ các
văn bản hợp pháp để xem xét, kiểm tra nhằm bảo đảm trích xuất đúng người và lập
thủ tục giao nhận người được trích xuất, có ghi rõ tình trạng sức khoẻ của người
đó.