1. Điều kiện chung để nhà ở tham gia vào giao dịch
Căn cứ Điều 118 Luật Nhà ở 2014,
nhà ở trở thành đối tượng của hợp đồng khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, có Giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật, trừ trường
hợp quy định tại Khoản 2 Điều này bao gồm:
a) Mua bán, thế chấp nhà ở hình
thành trong tương lai;
b) Tổ chức thực hiện tặng cho nhà
tình nghĩa, nhà tình thương;

d) Cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ,
ủy quyền quản lý nhà ở;
đ) Nhận thừa kế nhà ở;
e) Chuyển nhượng hợp đồng mua bán
nhà ở thương mại được xây dựng trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở bao gồm cả trường
hợp đã nhận bàn giao nhà ở từ chủ đầu tư nhưng chưa nộp hồ sơ đề nghị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đối với nhà ở đó.
Trong những trường hợp không bắt
buộc có Giấy chứng nhận nêu trên thì cần có giấy tờ chứng minh điều kiện nhà ở
tham gia giao dịch. Các loại giấy tờ này được quy định tại Điều 72 Nghị định
99/2015/NĐ-CP.
Thứ hai, không thuộc diện đang có tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện
về quyền sở hữu; đang trong thời hạn sở hữu nhà ở đối với trường hợp sở hữu nhà
ở có thời hạn nhưng không áp dụng đối với trường hợp mua bán, thuê mua nhà ở
hình thành trong tương lai;
Thứ ba, không bị kê biên để thi hành án hoặc không bị kê biên để chấp
hành quyết định hành chính đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền không áp dụng đối với trường hợp mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong
tương lai;
Thứ tư, không thuộc diện đã có quyết định thu hồi đất, có thông báo
giải tỏa, phá dỡ nhà ở của cơ quan có thẩm quyền.
*Lưu ý: Các điều kiện thứ hai và thứ ba nêu trên không áp dụng đối
với trường hợp mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai.
2. Điều kiện về các bên trong giao dịch
a) Đối với bên bán, cho thuê, cho
thuê mua nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại, tặng cho, đổi,
để thừa kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở cần
đáp ứng các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 119 Luật Nhà ở 2014 sau đây:
Thứ nhất, là chủ sở hữu nhà ở hoặc người được chủ sở hữu cho phép, ủy
quyền để thực hiện giao dịch về nhà ở; trường hợp chuyển nhượng hợp đồng mua
bán nhà ở thương mại thì phải là người đã mua nhà ở của chủ đầu tư hoặc người
đã nhận chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở;
Thứ hai, nếu là cá nhân thì phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
để thực hiện giao dịch về nhà ở theo quy định của pháp luật dân sự; nếu là tổ
chức thì phải có tư cách pháp nhân, trừ trường hợp tổ chức tặng cho nhà tình
nghĩa, nhà tình thương.
b) Đối với bên mua, thuê, thuê
mua nhà ở, bên nhận chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại, nhận đổi,
nhận tặng cho, nhận thừa kế, nhận góp vốn, nhận thế chấp, mượn, ở nhờ, được ủy
quyền quản lý nhà ở là cá nhân thì phải có điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều
119 Luật Nhà ở 2014 sau đây:
Thứ nhất, nếu là cá nhân trong nước thì phải có đủ năng lực hành vi
dân sự để thực hiện các giao dịch về nhà ở theo quy định của pháp luật dân sự
và không bắt buộc phải có đăng ký thường trú tại nơi có nhà ở được giao dịch;
Thứ hai, nếu là cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài thì phải có đủ năng lực hành vi dân sự để thực hiện giao dịch về nhà ở
theo quy định của pháp luật Việt Nam, phải thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại
Việt Nam và không bắt buộc phải có đăng ký tạm trú hoặc đăng ký thường trú tại
nơi có nhà ở được giao dịch.
c) Đối với bên mua, thuê, thuê
mua nhà ở, bên nhận chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại, nhận đổi,
nhận tặng cho, nhận thừa kế, nhận thế chấp, nhận góp vốn, được ủy quyền quản lý
nhà ở là tổ chức theo quy định tại Khoản 3 Điều 119 Luật Nhà ở 2014 thì phải
đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, có tư cách pháp nhân và không phụ thuộc vào nơi đăng ký
kinh doanh, nơi thành lập;
Thứ hai, trường hợp là tổ chức nước ngoài thì phải thuộc đối tượng
được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; nếu tổ chức được ủy quyền quản lý nhà ở thì phải
có chức năng kinh doanh dịch vụ bất động sản và đang hoạt động tại Việt Nam
theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản.
3. Điều kiện về hình thức của hợp đồng
Thứ nhất, hợp đồng về nhà ở phải lập thành văn bản căn cứ Điều 121
Luật Nhà ở 2014;
Thứ hai, về việc công chứng, chứng thực hợp đồng về nhà ở;
Việc công chứng được thực hiện tại
tổ chức hành nghề công chứng; chứng thực thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi có nhà ở theo quy định tại Khoản 4 Điều 122 Luật Nhà ở 2014. Cụ thể như
sau: Hợp đồng mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp
đồng mua bán nhà ở thương mại: phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng
trừ trường hợp: tổ chức tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương; mua bán, cho
thuê mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; mua bán, cho thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở
phục vụ tái định cư; góp vốn bằng nhà ở mà có một bên là tổ chức; cho thuê, cho
mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở thì không bắt buộc phải công chứng, chứng
thực hợp đồng, trừ trường hợp các bên có nhu cầu. Ngoài ra, nếu một bên trong
giao dịch là tổ chức kinh doanh bất động sản thì việc công chứng, chứng thực thực
hiện theo thỏa thuận của các bên căn cứ tại Khoản 2 Điều 17 Luật Kinh doanh bất
động sản 2014;
Thứ ba, đối với văn bản thừa kế thì được công chứng, chứng thực
theo pháp luật dân sự căn cứ vào Khoản 3 Điều 122 Luật Nhà ở 2014.
Thứ tư, về hiệu lực của hợp đồng. Đối với những giao dịch phải công
chứng, chứng thực thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng,
chứng thực. Những giao dịch không bắt buộc công chứng, chứng thực thì thời điểm
có hiệu lực do các bên thỏa thuận; nếu không có thoả thuận thì thời điểm đó là
thời điểm ký kết hợp đồng.
Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.
Nhận xét
Đăng nhận xét