Chuyển đến nội dung chính

Có Quy Định Pháp Luật Nào Cho Bị Can Được Tại Ngoại Để Về Chịu Tang?

Một người đang bị cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam để điều tra vụ án, trong pháp luật hình sự gọi là bị can. Tuy nhiên, trong quá trình bị can đang bị tạm giam thì người thân ở nhà vì một lý do nào đó mà qua đời. Vậy, trong trường hợp này, có quy định nào của pháp luật cho phép bị can được tại ngoại để về chịu tang hay không?
Bị can xin được tại ngoại để về chịu tang có được chấp nhận?
Đang bị tạm giam để điều tra có được tại ngoại về chịu tang?

Có quy định nào cho bị can được tại ngoại về chịu tang?

Câu trả lời cho câu hỏi trên hiện tại theo quy định của pháp luật là không. Chưa hề có bất kỳ một quy định nào quy định rõ ràng là bị can được phép tại ngoại để về chịu tang người thân.
Tuy nhiên, trên lý thuyết, điều này vẫn có thể xảy ra, bằng cách vận dụng quy định về trường hợp thay đổi biện pháp ngăn chặn. Theo quy định tại Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn.
Theo đó, tạm giam được áp dụng đối với tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng trong một số trường hợp luật định. Tại ngoại được hiểu là một người đang là đối tượng bị điều tra trong một vụ án hình sự nhưng không bị cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Không có khái niệm cũng như điều kiện cụ thể được tại ngoại trong luật tố tụng hình sự.
Vận dụng trong trường hợp thay đổi biện pháp ngăn chặn, có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét thay thế biện pháp ngăn chặn đang áp dụng đối với bị can từ tạm giam sang biện pháp tại ngoại. Nếu quy định này được vận dụng thì cơ hội được về chịu tang người thân là có khả năng xảy ra.

Các biện pháp tại ngoại nào được sử dụng thay thế tạm giam?

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can mà được xem xét áp dụng các biện pháp thay thế tạm giam sau:
Xin tại ngoại bằng biện pháp nào?
Các biện pháp tại ngoại nào được sử dụng thay thế tạm giam?
Một là, bảo lĩnh
Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.
Hai là, đặt tiền để đảm bảo
Bị can được bảo lĩnh, đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:
  • Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
  • Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
  • Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trường hợp bị can vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì bị tạm giam và số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Thẩm quyền quyết định thay thế biện pháp tạm giam sang tại ngoại

Theo quy định tại Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án có thể thay thế biện pháp ngăn chặn này bằng biện pháp ngăn chặn khác. Theo đó, các cơ quan này sẽ có thẩm quyền quyết định thay thế từ tạm giam sang đặt tiền để đảm bảo hoặc biện pháp bảo lĩnh. Tuy nhiên, nếu trên thực tế, bị can được tại ngoại về chịu tang phải đảm bảo an ninh tuyệt đối để bị can không lợi dụng tình hình bỏ trốn.

Có trường hợp nào đủ điều kiện tạm giam nhưng bị can không bị tạm giam không?

Theo quy định tại khoản 4 Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự, đối với bị can là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
  • Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
  • Tiếp tục phạm tội;
  • Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
  • Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

Có trường hợp nào trong thực tế bị can được tại ngoại về chịu tang không?

Hiện nay, trên thực tế, chúng tôi chưa ghi nhận được trường hợp nào bị can được phép tại ngoại về chịu tang. Gần đây, dư luận xôn xao về việc anh em Đinh La Thăng, Đinh Mạnh Thắng xin được về chịu tang cha vào cuối tháng 1 vừa qua nhưng cũng không được chấp nhận. Mới đây là bị cáo Nguyễn Thanh Hóa, nguyên Thiếu tướng, Cục trưởng Cục phòng chống tội phạm công nghệ cao (C50) trong các phiên tòa diễn ra vào cuối tháng 11 này cũng xin được giảm án sớm về chịu tang mẹ. Hiện tại, vẫn đang chờ quyết định của Hội đồng xét xử.
Trên đây là toàn bộ nội dung liên quan đến vấn đề “Có quy định nào của pháp luật quy định bị can được tại ngoại về chịu tang không?”. Trường hợp còn vấn đề nào chưa rõ ràng hoặc cần tư vấn thêm, vui lòng liên hệ chúng tôi để được tư vấn miễn phí.
 
Tham khảo thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có