Chuyển đến nội dung chính

Giải Quyết Tranh Chấp Về Việc Đòi Nhà Cho Thuê

Tranh chấp về việc đòi nhà cho thuê phát sinh khi quan hệ quy định trong hợp đồng thuê nhà bị vi phạm bởi bên thuê nhà, ví dụ vi phạm về nghĩa vụ trả tiền, nghĩa vụ trả lại nhà thuê, vi phạm mục đích sử dụng, nghĩa vụ bảo quản tài sản, …“Hợp đồng thuê nhà” được hiểu là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê nhà ở giao nhà ở cho bên thuê để sử dụng (có thời hạn hoặc không có thời hạn) và nhận tiền thuê, còn bên thuê nhà ở được sử dụng nhà ở đó để ở và phải trả tiền thuê nhà ở theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Tranh chấp hợp đồng thuê nhà
Khởi kiện đòi nhà do bên thuê không trả lại nhà khi hết thời hạn hợp đồng thuê

Tranh chấp về việc đòi nhà cho thuê giải quyết như thế nào?

Nếu các bên trong tranh chấp về đòi nhà cho thuê không thể tự giải quyết thông qua hòa giải thì có thể nhờ tòa án có thẩm quyền giải quyết. Cụ thể, căn cứ vào khoản 3 Điều 126, Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm hoặc tòa án của nguyên đơn nếu các bên có thỏa thuận có thẩm quyền giải quyết.
Trong các quan hệ phát sinh tranh chấp về việc đòi nhà cho thuê. Quan hệ về vi phạm nghĩa vụ trả lại nhà thuê rất phổ biến, theo đó bên thuê không chịu trả lại nhà thuê cho chủ sở hữu như đã thỏa thuận. Theo quy định, Chủ sở hữu đối với tài sản có quyền đòi lại nhà đã cho thuê theo quy định tại Điều 166 Bộ luật dân sự 2015.

Có bắt buộc hòa giải cơ sở khi tranh chấp về việc đòi nhà cho thuê và hướng giải quyết tranh chấp đòi nhà như thế nào?

Thực tế thủ tục hòa giải đối với nhiều vụ án tranh chấp bắt buộc phải thông qua hòa giải cơ sở trước khi một hoặc hai bên khởi kiện tại tòa án. Vì hòa hòa giải cơ sở là điều kiện để tòa án thụ lý giải quyết vụ tranh chấp. Nhưng có một số ít thì không cần bắt buộc.
Hòa giải tranh chấp cho thuê nha
Nhà nước khuyến khích các bên tự hòa giải khi có tranh chấp nhà ở
Pháp luật không quy định bắt buộc phải hòa giải cơ sở, do đó bên bị xâm hại về quyền và lợi ích do trách chấp hợp đồng thuê nhà có thể gửi đơn khởi kiện trực tiếp đến tòa có thẩm quyền. Luật hòa giải cơ sở 2013, quy định thì trường hợp tranh chấp đòi nhà cho thuê không thuộc trường hợp bắt buộc. Nhưng nếu các bên có nhu cầu thì pháp luật rất khuyến khích.

Hướng giải quyết tranh chấp về việc đòi nhà cho thuê ?

Để giải quyết tranh chấp đòi nhà cho thuê thì có thể tham khảo theo những căn cứ như sau:
Thứ nhất, pháp luật hiện hành tại Điều 131; Điều 132 khoản 2 Điều 129 Luật nhà ở 2014 và Điều 422 Bộ luật dân sự 2015 quy định về chấm dứt Hợp đồng thuê nhà ở, sau khi Hợp đồng bị chấm dứt thì bên cho thuê có quyền lấy lại nhà thuê là có căn cứ.
Một là, Hợp đồng thuê nhà ở hết hạn; trường hợp trong hợp đồng không xác định thời hạn thì hợp đồng chấm dứt sau 90 ngày, kể từ ngày bên cho thuê nhà ở thông báo cho bên thuê nhà ở biết việc chấm dứt hợp đồng;
Hai là, Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng cho thuê;
Ba là, Hoặc mặc dầu các bên có thỏa thuận là bên cho thuê không được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà và thu hồi nhà ở đang cho thuê, nhưng pháp luật lại cho phép đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà và thu hồi nhà ở đang cho thuê trong các trường hợp sau:
  • Tranh chấp hợp đồng thuê nhà
    Hướng dẫn đòi lại nhà cho người khác thuê
    Bên cho thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, nhà ở xã hội cho thuê không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không đúng điều kiện theo quy định của Luật này;
  • Bên thuê không trả tiền thuê nhà ở theo thỏa thuận từ 03 tháng trở lên mà không có lý do chính đáng;
  • Bên thuê sử dụng nhà ở không đúng mục đích như đã thỏa thuận trong hợp đồng;
  • Bên thuê tự ý đục phá, cơi nới, cải tạo, phá dỡ nhà ở đang thuê;
  • Bên thuê chuyển đổi, cho mượn, cho thuê lại nhà ở đang thuê mà không có sự đồng ý của bên cho thuê;
  • Bên thuê làm mất trật tự, vệ sinh môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt của những người xung quanh đã được bên cho thuê nhà ở hoặc tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc lập biên bản đến lần thứ ba mà vẫn không khắc phục;
  • Trường hợp không thỏa thuận được giá thuê thì bên cho thuê có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở và phải bồi thường cho bên thuê theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, Hợp đồng bị hủy bỏ tại Điều 423 Bộ luật dân sự 2015 khi có cơ sở sau:
  • Một, bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng hoặc văn bản;
  • Hai, bên thuê không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình đến mức làm cho bên cho thuê không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
  • Ba, do bên thuê chậm thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 424 BLDS 2015
  • Bốn, không có khả năng thực hiện, việc không có khả năng thực hiện Điều 425 BLDS 2015 quy định như sau
Lưu ý: Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.


 Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có