Chuyển đến nội dung chính

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN (PHẦN 2)

Như đã trình bày ở phần 1, thông qua việc quy định chi tiết về các tội danh mà pháp nhân thương mại phải chịu thì nội dung chính mà pháp luật hình sự hướng đến việc quản lý các tội phạm liên quan đến lĩnh vực chứng khoán là:


a)     Khách thể:
-                     Hành vi phạm tội không những xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực tài chính – chứng khoán mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự biến đổi giá của thị trường chứng khoán, xâm phạm đến quyền và lợi ích của các cá nhân, chủ thể khác tham gia vào thị trường chứng khoán.
-                     Đối tượng của hành vi phạm tội: Những thông tin liên quan đến thị trường chứng khoán mà Nhà nước hoặc một chủ thể khác đang quản lý. Đối tượng của hành vi phạm tội này bao gồm một trong các bộ phận sau:
Một là, chủ thể của quan hệ xã hội: những chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán.
Hai là, nội dung của các quan hệ xã hội: quan hệ trong quản lý các giao dịch chứng khoán.

Ba là, đối tượng tác động của các quan hệ xã hội: bao gồm:
·                    Thông tin nội bộ: Khoản 32 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 thì thông tin nội bộ là thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó. Trong đó,
§  Cũng theo quy định của điều 25 Luật chứng khoán 2006 thì định nghĩa về công ty đại chúng được hiểu như sau: “Công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong ba loại hình sau: (1) Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chứng; (2) Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán; (3) Công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên”.
§  Theo khoản 28 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 thì Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng.
·      Những thông tin trong hoạt động chứng khoán bao gồm:
1)   Chào bán chứng khoán: khoản 12 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 nêu rõ: Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức sau đây:
a) Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet;
b) Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;
c) Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định.”
2)   Niêm yết chứng khoán: khoản 17 Điều 6 Luật chứng khoán 2006: Niêm yết chứng khoán là việc đưa các chứng khoán có đủ điều kiện vào giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán.
3)   Kinh doanh chứng khoán: khoản 19 Điều 6 Luật chứng khoán 2006: Kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.
4)   Lưu ký chứng khoán: khoản 24 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 thì: “Lưu ký chứng khoán là việc nhận ký gửi, bảo quản, chuyển giao chứng khoán cho khách hàng, giúp khách hàng thực hiện các quyền liên quan đến sở hữu chứng khoán.
5)   Bù trừ và thanh toán chứng khoán: là bước thực hiện cuối cùng để hoàn tất quá trình giao dịch chứng khoán.
b)     Mặt khách quan:
·        Hành vi:
- Tội cố ý công bố sai lệch hoặc che dấu thông tin trong hoạt động chứng khoán: bao gồm:
+ Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán: theo điểm a khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch 10/2013/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTC thì hành vi này được hiểu là việc người phạm tội đã công bố thông tin sai sự thật liên quan đến hoạt động của công ty đại chúng, tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán công bố thông tin không đúng với các thông tin trong hồ sơ chào bán chứng khoán, hồ sơ đăng ký niêm yết, giao dịch chứng khoán, hồ sơ đề nghị cấp, bổ sung Giấy phép thành lập và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, hồ sơ đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán”.
+ Che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán: cũng theo điểm b khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch 10/2013/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTC thì hành vi này được hiểu là việc người phạm tội không công bố hoặc cố ý công bố không đầy đủ các thông tin trong hồ sơ chào bán chứng khoán, hồ sơ đăng ký niêm yết, giao dịch chứng khoán, hồ sơ đề nghị cấp, bổ sung Giấy phép thành lập và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán; hồ sơ đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán.
- Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán: chủ thể phạm tội có hành vi sử dụng thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố để mua bán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở thông tin đó nhằm thu lợi nhuận bất chính.
- Tội thao túng thị trường chứng khoán: khi có biểu hiện về hành vi thuộc một trong các hành vi sau đây:
+ Sử dụng một hoặc nhiều tài khoản giao dịch của mình hoặc của người khác hoặc thông đồng với nhau liên tục mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo;
+ Thông đồng với người khác đặt lệnh mua và bán cùng loại chứng khoán trong cùng ngày giao dịch hoặc thông đồng với nhau giao dịch mua bán chứng khoán mà không dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở hữu hoặc quyền sở hữu chỉ luân chuyển giữa các thành viên trong nhóm nhằm tạo giá chứng khoán, cung cầu giả tạo;
+ Liên tục mua hoặc bán chứng khoán với khối lượng chi phối vào thời điểm mở cửa hoặc đóng cửa thị trường nhằm tạo ra mức giá đóng cửa hoặc giá mở cửa mới cho loại chứng khoán đó trên thị trường;
+ Giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục đặt lệnh mua, bán chứng khoán gây ảnh hưởng lớn đến cung cầu và giá chứng khoán, thao túng giá chứng khoán;
+ Đưa ra ý kiến một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua phương tiện thông tin đại chúng về một loại chứng khoán, về tổ chức phát hành chứng khoán nhằm tạo ảnh hưởng đến giá của loại chứng khoán đó sau khi đã thực hiện giao dịch và nắm giữ vị thế đối với loại chứng khoán đó;
+ Sử dụng các phương thức hoặc thực hiện các hành vi giao dịch khác để tạo cung cầu giả tạo, thao túng giá chứng khoán.
· Những hành vi được thể hiện dưới dạng hành động.
· Hậu quả do những hành vi này gây ra là thiệt hại vật chất (cho nhà đầu tư từ việc thu lợi bất chính) và phi vật chất (gây ảnh hưởng đến việc thưc hiện chính sách pháp luật của Nhà nước về thị trường chứng khoán; làm mất niêm tin của nhiều nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán; làm ảnh hưởng đến sự công bằng, tính minh bạch, công khai và an toàn của thị trường chứng khoán).
· Mối quan hệ nhân – quả: kép trực tiếp. Quan hệ nhân quả này có nhiều hành vi trái pháp luật cùng đóng vai trò là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
· Những yếu tố khác:
-         Phương tiện, công cụ phạm tội: sử dụng một hoặc nhiều tài khoản giao dịch của mình hoặc của chủ thể khác để thực hiện nhiều giao dịch nhằm tạo ra cung cầu giả tạo, thao túng thị trường chứng khoán; những thông tin có giá trị liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng mà chưa đưuọc công bố; tạo ra thông tin giả mạo ghi trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán.
-         Phương pháp, thủ đoạn phạm tội: thực hiện bằng việc làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán nhằm lôi kéo, xúi giục chủ thể mua, bán chứng khoán; lấy nhiều tài khoản giao dịch khác nhau để thông đồng với nhiều chủ thể trong việc tạo ra cung cầu giả tạo; cấu kết, lôi kéo nhiều chủ thể khác cùng thực hiện việc đặt lệnh mua, bán chứng khoán gây ảnh hưởng đến cung cầu và giá chứng khoán; lợi dụng những thông tin nội bộ liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố để thực hiện hành vi mua bán, tiết lộ cho chủ thể khác để thu lợi nhuận.
-         Thời điểm hoàn thành tội phạm:
§   Đối với tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán: từ khi chủ thể bị lừa dối tham gia giao dịch chứng khoán với những thông tin sai lệch đó.
§   Đối với tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán: từ khi cá nhân biết được thông tin nội bộ của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng (được liệt kê tại khoản 33 Điều 6 Luật chứng khoán 2006) đưa những thông tin này đến một chủ thể khác.
§   Đối với tội thao túng thị trường chứng khoán: từ khi các chủ thể thông đồng với nhau sử dụng nhiều tài khoản thực hiện nhiều hành vi giao dịch trên thị trường chứng khoán.
c)               Chủ thể: Pháp nhân thương mại. Vì tự bản thân pháp nhân có thể nhận thức và điều khiển được hành vi phạm tội của mình hoặc của những người đại diện cho pháp nhân đó.
d)     Mặt chủ quan: bao gồm:
- Yếu tố lỗi: của hành vi này là lỗi cố ý. Vì chủ thể phạm tội nhận thức rõ được rằng hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả trái phép của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì muốn thu được lợi nhuận cao nên họ vẫn tiếp tục thực hiện hành vi đó và đã đoán trước được hậu quả xảy ra nếu bị phát hiện.
- Động cơ của chủ thể phạm tội là nhằm kiếm lợi bất chính; tạo ra cung cầu giả tạo.


- Mục đích: buôn bán thông tin nội bộ; cung cấp thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán; thao túng thị trường chứng khoán.


Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có

Thủ tục hòa giải bắt buộc trước khi khởi kiện

Tranh chấp đất đai vốn là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Đây cũng là  một trong những loại tranh chấp phổ biến nhất hiện nay. Khi phát sinh tranh chấp, hòa giải là phương án giải quyết ban đầu nhằm hạn chế tối đa những mâu thuẫn. Việc hòa giải có thể do các bên tự thương lượng hoặc thông qua một bên trung gian thứ ba trước khi khởi kiện nếu buộc phải giải quyết tại một cơ quan tài phán trong một số trường hợp nhất định. Trong bài viết này, ThS - Luật sư Phan Mạnh Thăng sẽ chia sẻ cụ thể về vấn đề trên. Hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm và đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm Hòa giải là một trong các phương pháp giải quyết trong tranh chấp đất đai. Theo đó bên thứ ba sẽ đóng vai trò là trung gian giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp để giải quyết tranh chấp. Bằng cách thương lượng, thuyết phục cùng với thiện chí của các bên thì tranh chấp sẽ được giải quyết một cách ôn hòa. Đặc điểm         Hiện nay về hò

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý?

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý dành cho các bậc phụ huynh khi có dấu hiệu học phí đầu năm ngày càng tăng. Về các khoản học phí được phép thu đã được pháp luật quy định cụ thể. Trường hợp nhà trường thu học phí sai quy định pháp luật sẽ bị xử lý về hành vi lạm thu học phí. Việc này thường xảy ra do các bậc cha mẹ không nắm rõ quy định. Sau đây, Thạc sĩ - Luật sư Phan Mạnh Thăng xin cung cấp nội dung về vấn đề trên. Hành vi lạm thu học phí đầu năm Các khoản thu nào nhà trường không được phép thu?           Theo Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT thì các khoản phụ phí đầu năm sẽ được thu qua Ban đại diện cha mẹ học sinh theo nguyên tắc tự nguyện. Tuy nhiên, trên thực tế các khoản phí này thường được Ban đại diện cha mẹ học sinh nhờ nhà trường thu hộ và được thu như phí bắt buộc.           Căn cứ khoản 4 Điều 10 Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT quy định những khoản Ban đại diện cha mẹ học sinh không được phép quyên góp là: Các khoản ủng hộ không theo nguyên tắc tự nguyện Bảo vệ