Chuyển đến nội dung chính

TỘI PHẠM PHÁP NHÂN TRONG LĨNH VỰC HÀNG HÓA (PHÂN 2)

Thông qua việc quy định chi tiết về các tội danh mà pháp nhân phải chịu thì nội dung chính mà pháp luật hướng đến việc quản lý các tội phạm liên quan đến hàng hóa chung này là:
a)     Khách thể: hành vi phạm tội này xâm phạm đến chính sách quản lý của nhà nước ta bao gồm cả trong nước và quốc tế. Đồng thời xâm hại đến nền sản xuất hàng hóa, làm mất sự ổn định của thị trường, xâm hại đến quyền và lợi ích của người tiêu dùng.
Đối tượng của hành vi phạm tội: liên quan đến hàng hóa mà Nhà nước cấm hoặc hạn chế kinh doanh, bao gồm hàng giả và hàng cấm kinh doanh. Đối tượng của hành vi phạm tội bao gồm một trong các bộ phận sau.
§  Một là, chủ thể của quan hệ xã hội: người tiêu dùng.
§  Hai là, nội dung của các quan hệ xã hội: Quan hệ xã hội trong quản lý chất lượng phân phối, lưu thông hàng hóa.
§  Ba là, đối tượng tác động của các quan hệ xã hội:
·                    Hàng cấmtại khoản 6 Điều 3 Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động  thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quy định: “Hàng cấm gồm hàng hóa kinh doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử dụng; hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam”. Danh mục hàng cấm được liệt kê trong Phụ lục 1 – danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh được quy định trong van bản hợp nhất số 19/VBHN-BTC nghị định quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện kèm theo Điều 4 Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006.
·                    Hàng nhập lậu: theo khoản 7 Điều 3 Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động  thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì “Hàng hóa nhập lậu” gồm:
a) Hàng hóa cấm nhập khẩu hoặc tạm ngừng nhập khẩu theo quy định của pháp luật;
b) Hàng hóa nhập khẩu thuộc danh mục hàng hóa nhập khẩu có điều kiện mà không có giấy phép nhập khẩu hoặc giấy tờ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp theo quy định kèm theo hàng hóa khi lưu thông trên thị trường;
c) Hàng hóa nhập khẩu không đi qua cửa khẩu quy định, không làm thủ tục hải quan theo quy định của pháp luật hoặc gian lận số lượng, chủng loại hàng hóa khi làm thủ tục hải quan;
d) Hàng hóa nhập khẩu lưu thông trên thị trường không có hóa đơn, chứng từ kèm theo theo quy định của pháp luật hoặc có hóa đơn, chứng từ nhưng hóa đơn, chứng từ là không hợp pháp theo quy định của pháp luật về quản lý hóa đơn;
đ) Hàng hóa nhập khẩu theo quy định của pháp luật phải dán tem nhập khẩu nhưng không có tem dán vào hàng hóa theo quy định của pháp luật hoặc có tem dán nhưng là tem giả, tem đã qua sử dụng.
·                    Hàng giả: khoản 8 Điều 3 Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động  thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: “Hàng giả” gồm:
a) Hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký;
b) Hàng hóa có hàm lượng định lượng chất chính hoặc tổng các chất dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
c) Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người, vật nuôi không có dược chất; có dược chất nhưng không đúng với hàm lượng đã đăng ký; không đủ loại dược chất đã đăng ký; có dược chất khác với dược chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
d) Thuốc bảo vệ thực vật không có hoạt chất; hàm lượng hoạt chất chỉ đạt từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng; không đủ loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất khác với hoạt chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
đ) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả mạo tên thương nhân, địa chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên thương mại hoặc tên thương phẩm hàng hóa; giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của thương nhân khác;
e) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo về nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa;
g) Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005;
h) Tem, nhãn, bao bì giả.
b)     Mặt khách quan:
-                     Hành vi khách quan: là hành vi buôn bán, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ, sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hàng giả, hàng cấm, tiền tệ, kim khí quý, đá quý, những vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại.
-                     Những hành vi này đều được biểu hiện hoặc là tự chủ thể phạm tội tự mình thực hiện hành vi phạm tội hoặc là ủy quyền người khác thực hiện thay mình. Mặt khác những hành vi này đều xâm phạm không những đến chính sách quản lý của Nhà nước ta bao gồm cả trong nước và quốc tế, mà còn đến an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khác, gây khó khăn trong công tác quản lý, kiểm soát và ngăn chặn hành vi phạm tội này.
-                     Được thể hiện dưới dạng hành động.
-                     Hậu quả do những hành vi này gây ra là thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất.
-                     Mối quan hệ nhân – quả: đơn trực tiếp. Quan hệ nhân quả này chỉ cần có một hành vi trái pháp luật đóng vai trò là nguyên nhân của hậu quả tội phạm. Bản thân sự vận động nội tại của hành vi trái pháp luật này độc lập đã có khả năng trực tiếp đưa đến hậu quả.
-                     Những yếu tố khác:
·                    Phương tiện, công cụ phạm tội: dùng những hóa đơn khống hoặc giấy tờ đã khai báo sai để vận chuyển hàng hóa cấm, tiền tệ trái phép bằng nhiều phương tiện khác nhau như bằng đường hàng không, đường thủy, đường bộ,...
·                    Phương pháp, thủ đoạn phạm tội: thực hiện hành vi bằng việc khai báo không đúng với số lượng, tính chất của mặt hàng (khai báo ít lại hoặc nhiều hơn số lượng thực tại, mặt hàng này lại khai là mặt hàng khác,...); không có giấy tờ hoặc giả mạo giấy tờ đối với những mặt hàng bị cấm, không được phép lưu thông, vận chuyển qua biên giới,... hoặc trốn tránh sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền ở khu vực biên giới (như đi vòng qua cửa khẩu,...).
·                    Thời điểm hoàn thành tội phạm: tính từ thời điểm đưa hàng cấm, hàng giả, hàng nhập lậu qua biên giới một cách trái phép hoặc cho lưu thông trên thị trường nội địa.
c)                  Chủ thể: là pháp nhân thương mại. Vì tự bản thân pháp nhân có thể nhận thức và điều khiển được hành vi phạm tội của mình hoặc của những người đại diện cho pháp nhân đó.
d)                   Mặt chủ quan: bao gồm:
-                     Yếu tố lỗi: của hành vi này là lỗi cố ý.Vì chủ thể phạm tội nhận thức rõ được rằng hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả trái phép của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì muốn thu được lợi nhuận cao nên họ vẫn tiếp tục thực hiện hành vi đó và đã đoán trước được hậu quả xảy ra nếu bị phát hiện.
-                     Động cơ của chủ thể phạm tội là nhằm buôn bán kiếm lợi bất chính.

-                     Mục đích mà chủ thể phạm tội hướng đến là kết quả sau cùng của hành vi phạm tội.


Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có