Chuyển đến nội dung chính

THỰC TIỄN HỎI CUNG BỊ CAN VÀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ



1. Thực tiễn hỏi cung bị can
Thực tiễn điều tra đã chứng minh, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, sai sót trong hoạt động hỏi cung của cơ quan điều tra (CQĐT) như Điều tra viên đã vô tình hay cố ý thu thập chứng cứ bằng những biện pháp không hợp pháp hoặc cố tình làm sai lệch những chứng cứ đã thu thập được. Thậm chí, đôi lúc và tại một số địa phương vẫn tồn tại những hình thức thô bạo, trái pháp luật, khủng bố về tinh thần, tra tấn về thể xác để lấy cung bị can. Điều này dẫn đến việc xử lý tội phạm không đúng, ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình giải quyết vụ án, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, từ đó gián tiếp xâm phạm tới hoạt động tư pháp, làm giảm uy tín của CQĐT nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng khác nói chung. Những sai phạm này chủ yếu là người có thẩm quyền không tuân thủ triệt để những quy định của Bộ luật TTHS trong quá trình hỏi cung. Sự không tuân thủ nghiêm chỉnh về hoạt động hỏi cung được biểu hiện ở một số dạng cơ bản sau:

Thứ nhất, Điều tra viên có những hành vi vi phạm các quy định của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) trong hoạt động hỏi cung. (vi phạm về hình thức).
Điều tra viên đã cố ý sửa chữa ngày tháng của các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho “khớp” hay cố tình không đưa vào hồ sơ vụ án nhiều tài liệu có lợi cho bị can mà Điều tra viên đã thu thập được trước đó. Chỉ đến khi tòa  phúc thẩm hủy án sơ thẩm và yêu cầu bổ sung chứng cứ thì những tài liệu mới “xuất hiện”. Thậm chí, trong quá trình hỏi cung, Điều tra viên đã lấy lời khai của bị can bằng cách quay video nhưng không lập biên bản cũng không phát lại cho bị can xem; mớm cung cho các bị can bằng cách cho các bị can nghe băng cassette, xem băng video về lời khai của những người có liên quan tới vụ án khác trước khi trả lời. Hoạt động này đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc thu thập chứng cứ mà pháp luật tố tụng hình sự đã nghiêm cấm.

Thứ hai, Điều tra viên áp dụng các biện pháp hỏi cung trái pháp luật như bức cung, dùng nhục hình (vi phạm về nội dung). Đây là biểu hiện phổ biến của hành vi vi phạm pháp luật của CQĐT đã và đang được phát hiện ngày càng nhiều trong thời gian gần đây. Theo báo cáo kết quả giám sát về “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật”, trên thực tế còn xảy ra trường hợp bức cung, dùng nhục hình trong hoạt động điều tra, vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân của người bị tình nghi thực hiện tội phạm và dễ dẫn đến oan, sai. Đáng lưu ý thời gian gần đây đã xảy ra các vụ dùng nhục hình gây hậu quả nghiêm trọng, làm chết người, gây bức xúc trong dư luận như 05 Công an ở Tuy Hòa (Phú Yên) nhục hình dẫn đến cái chết của anh Ngô Thanh Kiều; Điều tra viên (Công an Sóc Trăng) đã dùng nhục hình ép bị can Trần Văn Đở và 6 bị can khác phải khai theo ý chí của mình là đồng phạm trong vụ giết người, cướp tài sản dẫn đến việc khởi tố, bắt giam oan 7 người; Điều tra viên (Bắc Giang) nhục hình nghiêm trọng đối với bị can Nguyễn Thị Nguyệt Nga…
Thứ ba, về việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can trong quá trình hỏi cung trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn. Mặc dù, Bộ luật TTHS quy định CQĐT cần phải luôn tạo điều kiện để bảo đảm cho bị can thực hiện quyền bào chữa. Tuy nhiên, do nhận thức pháp luật của một số người còn hạn chế và yếu tố tâm lý e ngại nên thực tế những người này không dám thực hiện quyền tự bào chữa cho mình. Phần khác là do sự gây sức ép từ phía Điều tra Viên. Theo quy định của Bộ luật TTHS hiện hành, người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi cung bị can, nếu được điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị can. Theo quy định này thì việc có cho phép được hỏi bị can hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Điều tra viên, có trường hợp Điều tra viên không cho người bào chữa hỏi mà chỉ cho “ngồi nghe” hỏi cung. Điều tra viên dường như không để ý đến sự có mặt của người bào chữa và ý kiến đề xuất của họ. Một số luật sư cho rằng họ có thể “hỏi thân chủ, giải thích hoặc tư vấn cho thân chủ về câu hỏi của điều tra viên”. Nhưng điều này phải được sự cho phép của ĐTV theo quy định của pháp luật. Nhiều luật sư cho biết đa số các buổi “tổng cung” này thì luật sư và khách hàng mới gặp nhau lần đầu tiên. Cho nên hiệu quả làm việc giữa luật sư và khách hàng là không cao. Do vậy, trong việc tham gia hỏi cung, họ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện quyền bào  chữa của mình.
2. Vai trò của luật sư trong quá trình hỏi cung
Theo quy định tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì Người bị buộc tội được coi là KHÔNG CÓ TỘI cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Trong quá trình làm việc tại cơ quan điều tra, công dân được Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể theo quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và được bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân theo quy định tại Điều 11 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
Theo quy định tại Khoản 03 Điều 83 và Khoản 2 Điều 84 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì luật sư được quyền thực hiện những hành vi sau để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ:
Thứ nhất, được THAM GIA CÁC BUỔI LẤY LỜI KHAI người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; Đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của bị hại và đương sự sau khi kết thúc điều tra.
Thứ hai, ĐƯỢC THAM GIA các buổi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
Thứ ba, kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Thứ tư, được quyền thu thập, cung cấp các tài liệu, đồ vật được xem là chứng cứ để bảo vệ cho thân chủ.
Thứ năm, được khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.


 Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có

Thủ tục hòa giải bắt buộc trước khi khởi kiện

Tranh chấp đất đai vốn là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Đây cũng là  một trong những loại tranh chấp phổ biến nhất hiện nay. Khi phát sinh tranh chấp, hòa giải là phương án giải quyết ban đầu nhằm hạn chế tối đa những mâu thuẫn. Việc hòa giải có thể do các bên tự thương lượng hoặc thông qua một bên trung gian thứ ba trước khi khởi kiện nếu buộc phải giải quyết tại một cơ quan tài phán trong một số trường hợp nhất định. Trong bài viết này, ThS - Luật sư Phan Mạnh Thăng sẽ chia sẻ cụ thể về vấn đề trên. Hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm và đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm Hòa giải là một trong các phương pháp giải quyết trong tranh chấp đất đai. Theo đó bên thứ ba sẽ đóng vai trò là trung gian giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp để giải quyết tranh chấp. Bằng cách thương lượng, thuyết phục cùng với thiện chí của các bên thì tranh chấp sẽ được giải quyết một cách ôn hòa. Đặc điểm         Hiện nay về hò

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý?

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý dành cho các bậc phụ huynh khi có dấu hiệu học phí đầu năm ngày càng tăng. Về các khoản học phí được phép thu đã được pháp luật quy định cụ thể. Trường hợp nhà trường thu học phí sai quy định pháp luật sẽ bị xử lý về hành vi lạm thu học phí. Việc này thường xảy ra do các bậc cha mẹ không nắm rõ quy định. Sau đây, Thạc sĩ - Luật sư Phan Mạnh Thăng xin cung cấp nội dung về vấn đề trên. Hành vi lạm thu học phí đầu năm Các khoản thu nào nhà trường không được phép thu?           Theo Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT thì các khoản phụ phí đầu năm sẽ được thu qua Ban đại diện cha mẹ học sinh theo nguyên tắc tự nguyện. Tuy nhiên, trên thực tế các khoản phí này thường được Ban đại diện cha mẹ học sinh nhờ nhà trường thu hộ và được thu như phí bắt buộc.           Căn cứ khoản 4 Điều 10 Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT quy định những khoản Ban đại diện cha mẹ học sinh không được phép quyên góp là: Các khoản ủng hộ không theo nguyên tắc tự nguyện Bảo vệ