Chuyển đến nội dung chính

TỘI PHẠM PHÁP NHÂN LIÊN QUAN ĐẾN THUẾ (PHẦN 2)

Thông qua việc quy định pháp luật hình sự chi tiết về các tội danh mà pháp nhân thương mại phải chịu thì nội dung chính mà pháp luật hướng đến việc quản lý các tội phạm liên quan đến thuế chung này là:
a) Khách thể:
Hành vi phạm tội này xâm phạm chính sách thuế của Nhà nước trong tất cả các lĩnh vực, làm thất thu ngân sách Nhà nước.
Đối tượng của hành vi phạm tội này là các nghĩa vụ thuế mà Nhà nước buộc pháp nhân phải nộp. Đối tượng của hành vi phạm tội bao gồm một trong các bộ phận sau:
Một là, chủ thể của quan hệ xã hội: cơ quan thuế.
Hai là, nội dung của các quan hệ xã hội: Quan hệ xã hội trong thi hành các chính sách thuế.
Ba là, đối tượng của các quan hệ xã hội: là các loại thuế mà pháp nhân có nghĩa vụ phải nộp và chịu sự điều chỉnh của pháp luật.

- Thuế thu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ như thuế giá trị gia tăng, thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường: các hành vi sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ của pháp nhân đều chịu bởi những loại thuế khác nhau.
- Thuế thu nhập: gồm thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp: đánh vào thu nhập của cá nhân hoặc của doanh nghiệp để đưa một phần thu nhập đó vào ngân sách nhà nước.
- Thuế sử dụng đất, thuế tài nguyên,...: khi hoạt động thương mại của pháp nhân có sử dụng một số tài sản của nhà nước như đất đai, tài nguyên,...
b) Mặt khách quan:
- Hành vi: hành vi trốn thuế; in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.
Những hành vi này đều được biểu hiện hoặc là tự chủ thể phạm tội tự mình thực hiện hành vi phạm tội hoặc là ủy quyền người khác thực hiện thay mình. Mặt khác những hành vi này đều xâm phạm không những đến chính sách quản lý thuế của Nhà nước ta, mà còn đến an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khác, gây khó khăn trong công tác quản lý, kiểm soát và ngăn chặn hành vi phạm tội này.
Được thể hiện dưới dạng hành động.
- Hậu quả: do những hành vi này gây ra là thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất;
-  Mối quan hệ nhân – quả: đơn trực tiếp. Quan hệ nhân quả này chỉ cần có một hành vi trái pháp luật đóng vai trò là nguyên nhân của hậu quả tội phạm. Bản thân sự vận động nội tại của hành vi trái pháp luật này độc lập đã có khả năng trực tiếp đưa đến hậu quả.
-  Những yếu tố khác:
· Phương tiện, công cụ phạm tội: dùng những hóa đơn khống, hóa đơn kê khai không đúng số lượng, chất lượng hàng hóa thực tế; những hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước ở dạng phôi từ 50 số đến dưới 100 số hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số; những hóa đơn, chứng từ trái phép khác dùng để thu nộp ngân sách nhà nước.
· Phương pháp, thủ đoạn phạm tội: thực hiện hành vi bằng việc khai báo những hóa đơn khống; in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước một cách trái phép.
· Thời điểm hoàn thành tội phạm: tính từ thời điểm pháp nhân thực hiện xong các giao dịch mua bán hóa đơn, chứng từ trái phép; in, phát hành những hóa đơn đó.
c) Chủ thể: là pháp nhân thương mại. Vì tự bản thân pháp nhân có thể nhận thức và điều khiển được hành vi phạm tội của mình hoặc của những người đại diện cho pháp nhân đó.
d) Mặt chủ quan: bao gồm:
- Yếu tố lỗi: của hành vi này là lỗi cố ý.Vì chủ thể phạm tội nhận thức rõ được rằng hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả trái phép của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì muốn thu được lợi nhuận cao nên họ vẫn tiếp tục thực hiện hành vi đó và đã đoán trước được hậu quả xảy ra nếu bị phát hiện.
- Động cơ của chủ thể phạm tội là nhằm thu lợi bất chính.

- Mục đích: của chủ thể phạm tội là nhằm trốn tránh việc thực hiện hiện nghĩa vụ nộp thuế với cơ quan thuế hoặc để nộp tiền thuế ít hơn mức thuế phải nộp.
Những cá nhân, tổ chức có nhu cầu tìm hiểu thêm, nên liên hệ luật sư để được tư vấn miễn phí.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có