Chuyển đến nội dung chính

Đơn Phương Chấm Dứt Hợp Đồng Thương Mại

Khi một bên có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng thương mại thì sẽ xử lý ra sao? Trong trường hợp nào được đơn phương chấm dứt hợp đồng? Nếu đơn phương chấm dứt trái luật thì bên đơn phương có phải chịu chế tài nào hay không? Pháp luật quy định về vấn đề này như thế nào? Hãy cùng chuyentuvanphapluat.com tìm hiểu bài viết dưới đây để trả lời cho các câu hỏi trên.
Chế định đơn phương chấm dứt hợp đồng thương mại
Quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng thương mại

Trường hợp nào được đơn phương chấm dứt hợp đồng thương mại?

Như đã đề cập, đơn phương chấm dứt hợp đồng sẽ gồm đơn phương đúng luật và đơn phương trái luật. Theo đó, một bên được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau (khoản 1 Điều 428 Bộ luật Dân sự 2015):
  1. Bên còn lại vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng;
  2. Các bên có thỏa thuận trường hợp nào được đơn phương và bên đơn phương đã thực hiện theo thỏa thuận đó;
  3. Pháp luật có quy định. Đối với từng loại hợp đồng cụ thể thì pháp luật sẽ quy định trường hợp nào được đơn phương chấm dứt.
Luật thương mại cũng có đề cập đến vấn đề này nhưng sử dụng một thuật ngữ khác để gọi tên, đó là đình chỉ thực hiện hợp đồng. Theo đó, tại Điều 310 Luật thương mại 2005 có quy định: đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây (trừ các trường hợp hành vi vi phạm được miễn trách tại Điều 294):
  1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng;
  2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Có thể thấy rằng, hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng thương mại đúng luật được quy định tương tự nhau tại Bộ luật dân sự và Luật Thương mại.

Đơn phương chấm dứt hợp đồng thương mại trái luật là gì?

Đơn phương chấm dứt hợp đồng thương mại trái luật là trường hợp việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng không có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 428 BLDS 2015.
Trong trường hợp này, bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan do không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng.

Làm sao để đơn phương chấm dứt hợp đồng đúng luật?

Trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng thương mại cần thông báo cho bên kia biết
Cần thông báo cho bên kia khi đơn phương chấm dứt hợp đồng thương mại
Để đơn phương chấm dứt hợp đồng thương mại đúng luật, ngoài việc thuộc các trường hợp được phép như phân tích tại phần trên. Bên đơn phương cần phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường (khoản 2 Điều 428 BLDS 2015).

Hậu quả của đơn phương chấm dứt hợp đồng thương mại

Căn cứ theo quy định tại khoản 3, 4 Điều 428 BLDS 2015 và Điều 311 Luật Thương mại 2005, Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. Hậu quả pháp lý của đơn phương chấm dứt hợp đồng như sau:
  • Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp.
  • Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán phần nghĩa vụ đã thực hiện.
  • Bên bị thiệt hại do hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng của bên kia được bồi thường.

Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng có giống nhau không?

Đơn phương chấm dứt hợp đồng thương mại và hủy bỏ hợp đồng thương mại là hai chế tài hoàn toàn khác nhau và riêng biệt trong luật điều chỉnh về hợp đồng thương mại.
Tuy nhiên, căn cứ để đơn phương và hủy bỏ hợp đồng là giống nhau (Điều 423, 424, 425, 426 BLDS 2015 và Điều 312, 313 Luật Thương mại 2005). Và trên thực tế, nhiều khi vẫn thường nhầm lẫn giữa hai chế tài này.
Xét về hậu quả pháp lý của hai chế tài này đều là không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ như đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp (khoản 1 Điều 427 BLDS 2015 và khoản 1 Điều 314 Luật thương mại 2005).
Tuy nhiên, có một điểm khác nhau cơ bản để phân biệt hai chế tài này (khoản 1, 2 Điều 427 BLDS 2015 và khoản 2 Điều 314 Luật Thương mại 2005) đó là:
  • Đối với hủy bỏ hợp đồng thì hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản.
  • Còn đối với đơn phương chấm dứt thì hợp đồng vẫn có hiệu lực đến thời điểm có thông báo chấm dứt, các công việc các bên đã thực hiện vẫn được ghi nhận và phải thanh toán đầy đủ.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn liên quan đến vấn đề “Đơn phương chấm dứt hợp đồng thương mại” chúng tôi gửi đến bạn đọc. Nếu có nhu cầu tư vấn thêm đối với các vấn đề liên quan hợp đồng thương mại, hãy đừng ngần ngại liên hệ với chúng tôi để được tư vấn miễn phí.


Tham khảo thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có

Thủ tục hòa giải bắt buộc trước khi khởi kiện

Tranh chấp đất đai vốn là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Đây cũng là  một trong những loại tranh chấp phổ biến nhất hiện nay. Khi phát sinh tranh chấp, hòa giải là phương án giải quyết ban đầu nhằm hạn chế tối đa những mâu thuẫn. Việc hòa giải có thể do các bên tự thương lượng hoặc thông qua một bên trung gian thứ ba trước khi khởi kiện nếu buộc phải giải quyết tại một cơ quan tài phán trong một số trường hợp nhất định. Trong bài viết này, ThS - Luật sư Phan Mạnh Thăng sẽ chia sẻ cụ thể về vấn đề trên. Hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm và đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm Hòa giải là một trong các phương pháp giải quyết trong tranh chấp đất đai. Theo đó bên thứ ba sẽ đóng vai trò là trung gian giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp để giải quyết tranh chấp. Bằng cách thương lượng, thuyết phục cùng với thiện chí của các bên thì tranh chấp sẽ được giải quyết một cách ôn hòa. Đặc điểm         Hiện nay về hò

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý?

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý dành cho các bậc phụ huynh khi có dấu hiệu học phí đầu năm ngày càng tăng. Về các khoản học phí được phép thu đã được pháp luật quy định cụ thể. Trường hợp nhà trường thu học phí sai quy định pháp luật sẽ bị xử lý về hành vi lạm thu học phí. Việc này thường xảy ra do các bậc cha mẹ không nắm rõ quy định. Sau đây, Thạc sĩ - Luật sư Phan Mạnh Thăng xin cung cấp nội dung về vấn đề trên. Hành vi lạm thu học phí đầu năm Các khoản thu nào nhà trường không được phép thu?           Theo Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT thì các khoản phụ phí đầu năm sẽ được thu qua Ban đại diện cha mẹ học sinh theo nguyên tắc tự nguyện. Tuy nhiên, trên thực tế các khoản phí này thường được Ban đại diện cha mẹ học sinh nhờ nhà trường thu hộ và được thu như phí bắt buộc.           Căn cứ khoản 4 Điều 10 Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT quy định những khoản Ban đại diện cha mẹ học sinh không được phép quyên góp là: Các khoản ủng hộ không theo nguyên tắc tự nguyện Bảo vệ