Chuyển đến nội dung chính

Bán 100 USD Bị Phạt 90 Triệu Đồng, Đúng Hay Sai

Trước đó, theo thông tin vụ việc. Ngày 24-10, Công an TP Cần Thơ đã tổ chức buổi họp báo, thông tin về vụ xử phạt vi phạm hành chính đối với anh Nguyễn Cà Rê (38 tuổi, ngụ phường An Hòa, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ) số tiền 90 triệu đồng do bán 100 USD. Như vậy, quy định của pháp luật như thế nào về vấn đề mua bán ngoại tệ. Việc bán 100 USD bị phạt 90 triệu đồng, đúng hay sai?
Mua bán ngoại tệ đúng địa điểm
Quy định về xử phạt mua bán ngoại tệ như thế nào

Câu chuyện anh thợ điện đổi 100 USD bị phạt 90 triệu đồng như thế nào?

Theo Công an thành phố, trưa 30-1, Phòng Cảnh sát kinh tế bắt quả tang ông Lê Hồng Lực, Giám đốc Công ty TNHH MTV SX-TM Nhân Đạt Jewelry Thảo Lực (40 Nguyễn Đức Cảnh, phường Cái Khế, quận Ninh Kiều) đang mua 100 USD của anh Rê với giá 2.260.000 đồng mà nơi này không có giấy phép thu mua ngoại tệ của cơ quan có thẩm quyền.
Theo đó, UBND TP Cần Thơ ra quyết định xử phạt hành chính 90 triệu đồng với ông Nguyễn Cà Rê theo điểm a, khoản 3, điều 24 Nghị định 96/2014/NĐ-CP về hành vi mua, bán ngoại tệ tại tổ chức không được phép thu đổi ngoại tệ. Kèm theo đó là hình phạt bổ sung tịch thu số tiền 2.260.000 đồng từ tiền bán 100 USD được quy định tại khoản 8, Điều 24 Nghị định 96/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.

Mua bán ngoại tệ ở đâu là hợp pháp?

Trong vụ việc trên, anh Rê bị xử phạt về hành vi mua bán tại tổ chức không được phép thu đổi ngoại tệ. Như vậy, việc mua bán ngoại tệ ở đâu là hợp pháp?
Theo quy định tại Điều 3, Thông tư 20/2011/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước về địa điểm mua bán ngoại tệ. Đó là, việc mua ngoại tệ tiền mặt của cá nhân được thực hiện tại các địa điểm được phép bán ngoại tệ tiền mặt thuộc mạng lưới hoạt động của tổ chức tín dụng được phép phù hợp với quy định của pháp luật.
Việc bán ngoại tệ tiền mặt của cá nhân được thực hiện tại các địa điểm được phép mua ngoại tệ tiền mặt thuộc mạng lưới hoạt động của tổ chức tín dụng được phép phù hợp với quy định của pháp luật và các Đại lý đổi ngoại tệ của tổ chức tín dụng được phép.
Theo đó, tổ chức tín dụng được phép là các ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối theo quy định của pháp luật.
Tổ chức kinh tế chỉ được thực hiện hoạt động đại lý đổi ngoại tệ sau khi được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp Giấy chứng nhận đăng ký đại lý đổi ngoại tệ. Đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 4 Nghị định 89/2016/NĐ-CP về điều kiện đối với hoạt động đại lý đổi ngoại tệ, hoạt động cung ứng dịch vụ nhận và chi, trả ngoại tệ của tổ chức kinh tệ.
Quy định về địa điểm mua bán ngoại tệ
Mua bán ngoại tệ đúng địa điểm theo quy định

Quyết định xử phạt bán 100 USD tại tiệm vàng là đúng hay sai?

Việc UBND TP Cần Thơ căn cứ Nghị định 96/2014 để xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân đổi ngoại tệ với số tiền 100 USD là không sai. Khi anh Rê thực hiện việc đổi 100 USD tại tiệm vàng Thảo Lực. Địa điểm thu mua ngoại tệ không có Giấy phép theo quy định pháp luật. Do đó, hành vi mua, bán ngoại tệ tại tổ chức không được phép thu đổi ngoại tệ sẽ bị phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng theo quy định tại điểm a, khoản 3, Điều 24 Nghị định 96/2014/NĐ-CP.
Tuy nhiên, trong vụ việc còn có một số bất thường về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
Một là, về lập biên bản. Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản. Tuy nhiên, tại thời điểm tiến hành khám xét người có thẩm quyền đang thi hành công vụ không lập biên bản vi phạm hành chính mà lại lập biên bản vào ngày không xảy ra hành vi vi phạm. Hành vi thu đổi ngoại tệ xảy ra vào ngày 30-1 nhưng đến ngày 13-8, Công an TP Cần Thơ mới lập Biên bản vi phạm là không đúng theo quy định tại Khoản 1 Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012.
Thứ hai, về thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Trong vụ việc, biên bản vi phạm ban hành ngày 13-8 mà đến ngày 04-9 mới ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính. Nếu nếu kết luận của cơ quan có thẩm quyền xác nhận vụ việc mang tính chất nghiêm trọng và thuộc trường hợp phải giải trình thì thời hạn để ra quyết định tối đa có thể là 60 ngày – tức việc ra quyết định xử phạt hành chính là đúng quy định pháp luật về mặt thời hạn. Tuy nhiên, vì ngay từ thời điểm lập biên bản vi phạm không phù hợp quy định rồi kéo theo việc ra quyết định về sau cũng không phù hợp theo.
Theo đó, nếu quá thời hạn quy định, người có thẩm quyền xử phạt không ra quyết định xử phạt nhưng vẫn quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nếu có lỗi trong việc để quá thời hạn mà không ra quyết định xử phạt thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.


Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có