Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Pháp luật dân sự nước ta quy định rất rõ ràng về vấn đề thừa kế của cá nhân, chia tài sản giữa những người có quan hệ huyết thống với nhau. Tuy nhiên, thực tế lại phát sinh nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến vấn đề thừa kế chia tài sản. Cụ thể là vấn đề không có tên trong hộ khẩu có được chia tài sản.
Trong luật này cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định nào thể hiện công dân đăng ký hộ khẩu ở địa chỉ nào thì được sở hữu nhà đất ở địa chỉ đó. Do vậy, việc công dân đăng ký hộ khẩu là nhằm mục đích xác định nơi cư trú của công dân chứ không phải là căn cứ xác định quyền sở hữu tài sản tại địa điểm đăng ký hộ khẩu của công dân.
Với các quy định nêu trên, việc khi một gia đình đồng ý cho cháu ruột nhập hộ khẩu không làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của người cháu đối với diện tích nhà và đất tại nơi đăng ký hộ khẩu.
Trường hợp sau này gia đình đó cần bán nhà đất thì cũng không cần phải có sự đồng ý của cháu (kể cả khi đó cháu đã đủ 18 tuổi). Khi ký kết hợp đồng mua bán hay giao dịch nhà đất, cũng không cần người cháu ruột phải tham gia mà chỉ cần sự đồng ý các đồng sở hữu đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất (sổ đỏ).
Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.
Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp nào?
- Theo quy định tại Điều 650 Bộ luật dân sự 2015 thì thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
- Không có di chúc;
- Di chúc không hợp pháp;
- Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
- Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
- Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
- Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
- Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Không có tên trong hộ khẩu có được chia tài sản?
Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định, những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Cho cháu ruột nhập khẩu thì khi bán nhà đất có cần sự đồng ý của người cháu không?
Theo quy định tại Điều 3 và Điều 11 Luật Cư trú năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú năm 2013, công dân có quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ đăng ký (hộ khẩu) thường trú hoặc tạm trú tại một địa điểm nhất định để cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc quản lý nhà nước về cư trú.Trong luật này cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định nào thể hiện công dân đăng ký hộ khẩu ở địa chỉ nào thì được sở hữu nhà đất ở địa chỉ đó. Do vậy, việc công dân đăng ký hộ khẩu là nhằm mục đích xác định nơi cư trú của công dân chứ không phải là căn cứ xác định quyền sở hữu tài sản tại địa điểm đăng ký hộ khẩu của công dân.
Với các quy định nêu trên, việc khi một gia đình đồng ý cho cháu ruột nhập hộ khẩu không làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của người cháu đối với diện tích nhà và đất tại nơi đăng ký hộ khẩu.
Trường hợp sau này gia đình đó cần bán nhà đất thì cũng không cần phải có sự đồng ý của cháu (kể cả khi đó cháu đã đủ 18 tuổi). Khi ký kết hợp đồng mua bán hay giao dịch nhà đất, cũng không cần người cháu ruột phải tham gia mà chỉ cần sự đồng ý các đồng sở hữu đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất (sổ đỏ).
Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.
Nhận xét
Đăng nhận xét