Chuyển đến nội dung chính

Chi Nhánh Ký Hợp Đồng Thì Kiện Ở Nơi Đặt Chi Nhánh Hay Trụ Sở?

Công việc kinh doanh ngày càng phát triển nên các doanh nghiệp thường muốn mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động. Lúc này, doanh nghiệp sẽ mở thêm chi nhánh hoặc văn phòng đại diện. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là Chi nhánh không có tư cách pháp nhân, nếu phát sinh tranh chấp từ hợp đồng đã ký với chi nhánh thì khởi kiện ở Tòa án nơi đặt chi nhánh hay Tòa án nơi doanh nghiệp có trụ sở?
Kiện ở đâu khi ký hợp đồng với chi nhánh?
Chi nhánh ký hợp đồng thì kiện ở nơi đặt chi nhánh hay trụ sở?

Khởi kiện tranh chấp hợp đồng do chi nhánh ký tại Tòa án nào?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Doanh nghiệp 2014: Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền. Doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hoạt động của chi nhánh do mình thành lập.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: “Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết”.
Theo quy định trên, Tòa án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó sẽ có thẩm quyền giải quyết khi có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng ký kết với chi nhánh. Người khởi kiện có quyền lựa chọn Tòa án một trong hai nơi trên để nộp đơn khởi kiện. Quy định này nhằm tạo sự thuận tiện hơn cho nguyên đơn, họ có thể lựa chọn Tòa án nơi thuận tiện nhất cho mình để khởi kiện nếu trong trường hợp chi nhánh và trụ sở doanh nghiệp không nằm trong một tỉnh, thành phố.

Có đúng không khi Tòa án hoãn phiên tòa để xác minh địa chỉ của chi nhánh?

Trách nhiệm của Tòa án tại thời điểm thụ lý đơn khởi kiện là phải biết việc nguyên đơn khởi kiện tại Tòa án mình là đúng chưa? Bị đơn có đúng là đang có trụ sở tại đó không? Vậy mà, trong vụ án sau đây, Tòa án lại phải hoãn phiên tòa sơ thẩm để có thời gian xác minh lại địa chỉ bị đơn.
Tòa án hoãn phiên tòa để xác minh địa chỉ chi nhánh có vi phạm tố tụng?
Có vi phạm khi Tòa án hoãn phiên tòa để xác minh địa chỉ chi nhánh?
Cuối năm 2015, Tòa án Quận TB, thành phố H đã thụ lý đơn khởi kiện của bà H đối với VPLS V (trụ sở tại thành phố C) yêu cầu hoàn trả lại số tiền 300.000.000 đồng mà chi nhánh VPLS V tại Quận T, thành phố H đã nhận của bà. Vụ việc đang trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Vào năm 2009, bà H có ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với Chi nhánh VPLS V tại Quận T, thành phố H. Tuy nhiên, phía Chi nhánh VPLS V mà trực tiếp là Luật sư T, trưởng Chi nhánh đã có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Cụ thể, có 2 hợp đồng được thỏa thuận giữa Luật sư T và bà H:
Thứ nhất, hợp đồng bằng văn bản, người đứng tên yêu cầu dịch vụ là bà D nhưng người ký tên lại là là H mà không có bất kỳ một văn bản ủy quyền nào của bà D ủy quyền cho bà H cả. Khi bà H thắc mắc thì Luật sư T nói rằng bà cứ ký đi, sau này sẽ ký lại hợp đồng mới;
Thứ hai, Luật sư T đã thỏa thuận miệng với bà H là các bên sẽ ký hợp đồng khác để thực hiện công việc trên. Bà H đồng ý và đã ứng trước 300.000.000 đồng để thực hiện công việc.
Sau đó, công việc thực hiện không đúng thỏa thuận, bà H đòi lại tiền thì Luật sư T hứa trả nhưng không trả nên bà H đã khởi kiện ra tòa.
Mới đây, vào ngày 04/12/2018, Tòa án nhân dân quận T đã mở phiên tòa Sơ thẩm xét xử vụ án trên. Tuy nhiên, sau đó phiên tòa phải bị hoãn do bị đơn cung cấp thông tin rằng vào thời điểm cuối năm 2015 khi Tòa thụ lý thì bị đơn đã chuyển nơi đặt chi nhánh sang Quận P, thành phố H. Yêu cầu chuyển hồ sơ về Tòa án nơi bị đơn đặt trụ sở (thành phố C) để giải quyết, căn cứ viện dẫn là theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bằng văn bản (theo quy định của bộ luật dân sự là vô hiệu).
Theo lời trình bày của bà H và hồ sơ vụ án, trước khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện thì đã có văn bản gửi đến Sở Tư pháp yêu cầu cung cấp thông tin của Chi nhánh VPLS V. Và khi nhận được văn bản trả lời của Sở Tư pháp rằng hiện tại Chi nhánh VPLS V vẫn ở Quận T, thành phố H thì nguyên đơn mới nộp đơn khởi kiện. Do đó, khi Bà H nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nơi bị đơn đặt chi nhánh là Quận T, thành phố H, Tòa án đã thụ lý bắt buộc phải biết là Tòa thụ lý là đúng thẩm quyền. Do đó, việc Tòa án hoãn phiên tòa để xác minh địa chỉ chi nhánh là không đúng với các chứng cứ, tình tiết khách quan của vụ án.
Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, đã thay đổi Thẩm phán, thư ký rất nhiều lần. Vi phạm thời hạn xét xử khi vụ án được thụ lý vào cuối năm 2015 mà đến tận tháng ngày 4/12/2018 mới xét xử sơ thẩm. Vụ án này không bị tạm đình chỉ, vậy mà đã kéo dài đến nay đã 3 năm trong khi luật quy định thời hạn xét xử là 4 tháng (khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
Phải chăng, Tòa án đã cố tình kéo dài vụ án, bất chấp hành vi đó đã và đang vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng?
Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết liên quan đến vấn đề “Chi nhánh ký hợp đồng thì kiện ở nơi đặt chi nhánh hay trụ sở?”. Nếu quý khách cần tư vấn thêm các vấn đề liên quan đến tranh chấp, vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi để được tư vấn miễn phí.


Tham khảo thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có

Thủ tục hòa giải bắt buộc trước khi khởi kiện

Tranh chấp đất đai vốn là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Đây cũng là  một trong những loại tranh chấp phổ biến nhất hiện nay. Khi phát sinh tranh chấp, hòa giải là phương án giải quyết ban đầu nhằm hạn chế tối đa những mâu thuẫn. Việc hòa giải có thể do các bên tự thương lượng hoặc thông qua một bên trung gian thứ ba trước khi khởi kiện nếu buộc phải giải quyết tại một cơ quan tài phán trong một số trường hợp nhất định. Trong bài viết này, ThS - Luật sư Phan Mạnh Thăng sẽ chia sẻ cụ thể về vấn đề trên. Hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm và đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm Hòa giải là một trong các phương pháp giải quyết trong tranh chấp đất đai. Theo đó bên thứ ba sẽ đóng vai trò là trung gian giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp để giải quyết tranh chấp. Bằng cách thương lượng, thuyết phục cùng với thiện chí của các bên thì tranh chấp sẽ được giải quyết một cách ôn hòa. Đặc điểm         Hiện nay về hò

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý?

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý dành cho các bậc phụ huynh khi có dấu hiệu học phí đầu năm ngày càng tăng. Về các khoản học phí được phép thu đã được pháp luật quy định cụ thể. Trường hợp nhà trường thu học phí sai quy định pháp luật sẽ bị xử lý về hành vi lạm thu học phí. Việc này thường xảy ra do các bậc cha mẹ không nắm rõ quy định. Sau đây, Thạc sĩ - Luật sư Phan Mạnh Thăng xin cung cấp nội dung về vấn đề trên. Hành vi lạm thu học phí đầu năm Các khoản thu nào nhà trường không được phép thu?           Theo Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT thì các khoản phụ phí đầu năm sẽ được thu qua Ban đại diện cha mẹ học sinh theo nguyên tắc tự nguyện. Tuy nhiên, trên thực tế các khoản phí này thường được Ban đại diện cha mẹ học sinh nhờ nhà trường thu hộ và được thu như phí bắt buộc.           Căn cứ khoản 4 Điều 10 Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT quy định những khoản Ban đại diện cha mẹ học sinh không được phép quyên góp là: Các khoản ủng hộ không theo nguyên tắc tự nguyện Bảo vệ