Chuyển đến nội dung chính

Tư Vấn Pháp Luật Đối Với Các Hoạt Động Thương Mại

Tư vấn pháp luật đối với các loại hợp đồng thương mại là lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý chuyên sâu liên quan tới các hoạt động trong quá trình giao dịch thương mại. Hoạt động giao dịch thương mại là hoạt động rất quan trọng đối với sự phát triển của một doanh nghiệp, tổ chức. Đáp ứng nhu cầu bức thiết của khách hàng về tính hợp pháp khi tiến hành các hoạt động/ giao dịch thương mại.
Tư vấn pháp luật về hoạt động thương mại
Quy định pháp luật về tư vấn pháp luật liên quan tới hoạt động thương mại

Tư vấn các hình thức cơ bản trong giao dịch thương mại bao gồm những gì?

Trong hoạt động tư vấn pháp luật đối với các hoạt động thương mại gồm các hình thức cơ bản như sau:
Tư vấn pháp luật về khả năng tham gia thị trường cũng như hình thức hoạt động/giao dịch thương mại phù hợp: mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại, trung gian thương mại, đấu thầu, đấu giá…;
Mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, xúc tiến thương mại, đăng ký khuyến mại, trung gian thương mại, …
Tư vấn, hỗ trợ khách hàng tham gia đàm phán với các đối tác trong các giao dịch thương mại; phân tích những rủi ro pháp lý tiềm ẩn và đề xuất các giải pháp;

Các hoạt động tư vấn liên quan tới hợp đồng đối với hoạt động thương mại như thế nào?   

Tư vấn và soạn thảo các loại hợp đồng thương mại, phân tích những rủi ro pháp lý tiềm ẩn và đề xuất các giải pháp đối với các hợp đồng thương mại: hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng phân phối, hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng đại lý, hợp đồng ủy thác, hợp đồng nhượng quyền thương mại, hợp đồng cung cấp dịch vụ…
Các quy định hình thức của hợp đồng thương mại như sau bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Nếu pháp luật quy định hoạt động mua bán hàng hóa đấy phải tuân thủ hình thức văn bản thì phải tuân thủ, theo Điều 24 Luật thương mại 2005.
Quy định về buộc thực hiện đúng hợp đồng, xử lý vi phạm, buộc bồi thường, đình chỉ, huỷ bỏ hợp đồng. Tư vấn về tập quán thương mại quốc tế; căn cứ vào quy định chung tại Bộ luật dân sự 2015 và các quy định riêng tại mục II quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa Luật thương mại 2005.
Rà soát các hợp đồng thương mại của khách hàng đã ký kết
Tư vấn, hỗ trợ khách hàng hoặc đại diện cho khách hàng tham gia đàm phán hợp đồng với đối tác trong giao dịch thương mại.

Về hoạt động tư vấn giải quyết tranh chấp đối với hoạt động thương mại ra làm sao?

tư vấn pháp luật về hoạt động thương mại
Giải quyết tranh chấp thương mại; tham gia trực tiếp thay mặt bên kia đàm phán hoặc khởi kiện đến tòa án có thẩm quyền hoặc cơ quan trọng tài. Nghiên cứu, kiểm tra hồ sơ pháp lý liên quan tới tranh chấp, trực tiếp soạn hồ sơ khởi kiện, chứng từ pháp lý liên quan tới hoạt động khởi kiện.
Tham gia giải quyết tranh chấp tranh chấp thương mại ngoài tố tụng hoặc bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong các tranh chấp thương mại tại tòa án, trọng tài. Trực tiếp làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho một bên trong quan hệ tranh chấp ngay tại phiên tòa.
Trên đây là nội dung về tư vấn pháp luật đối với các hoạt động thương mại đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho khách hàng và tuân theo quy định của pháp luật hiện hành.

Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có