Quy định của Luật Đất đai 2013 về đất của cơ sở
tôn giáo: Luật quy định tại khoản
4, Điều 5, Luật đất đai 2013 quy định
người sử dụng đất gồm có nhiều đối tượng, trong đó cơ sở tôn giáo
là chủ thể sử dụng đất. Qua đó, cơ sở tôn giáo được
xác định là một trong những người được sử dụng đất. Và người đứng đầu cơ sở tôn
giáo chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất đã giao cho cơ sở
tôn giáo (theo khoản 4, Điều 7, Luật Đất đai 2013).
Đất xây dựng chùa được cấp
sổ đỏ
Theo quy định tại Điều 159, Luật
Đất đai 2013 quy định về đất cơ sở tôn giáo gồm “đất thuộc chùa,
nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường
đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và các cơ sở khác của
tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động”. Đất của cơ sở tôn giáo thuộc nhóm đất phi
nông nghiệp (tại điểm g, khoản 4, Điều 10, Luật Đất đai
2013) và cơ sở tôn giáo sử dụng đất phi nông
nghiệp khi Nhà nước giao đất không phải trả tiền sử dụng đất (tại khoản
5, Điều 54, Luật Đất đai 2013).
Đất của cơ sở tôn giáo và tín ngưỡng hình thành
từ 3 nguồn gốc sau:
Một là, hình thành thông qua việc Nhà nước giao quyền sử dụng đất.
Hai là, hình thành thông qua việc Nhà nước công nhận quyền sử dụng
đất.Theo Luật Đất đai
2013, “Cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng được nhận quyền sử dụng đất thông qua việc
Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với đất đang được sử dụng ổn định”
(điểm i, khoản 1, điều 169).
Ba là, hình thành thông qua kết quả hòa giải thành về tranh chấp
đất đai; quyết định về giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố cáo về đất
đai; quyết định hoặc bản án của Tòa án nhân dân (TAND); quyết định thi hành án
của cơ quan thi hành án.
Cơ sở tôn giáo có quyền
chung như quyền của người sử dụng đất, gồm: được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; (Khoản 1 điều 181 và Khoản 1 điều 166 Luật đất đai 2013).
Tại khoản 4,
Điều 102, Luật Đất đai 2013 quy định việc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho cơ
sở tôn giáo đang sử dụng đất: “Cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất khi có đủ các điều kiện sau đây:
Được Nhà
nước cho phép hoạt động;
Không có
tranh chấp;
Không
phải là đất nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho sau ngày 01/7/2004.
So với Luật đất đai 2003 thì
Luật Đất đai 2013 bỏ 2 điều kiện là:
Có văn
bản đề nghị của tổ chức tôn giáo có cơ sở
tôn giáo.
Có xác
nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về nhu cầu sử dụng đất của cơ sở tôn giáo
Và bổ
sung thêm điều kiện “không tranh chấp”.
Trường hợp đất do cơ sở
tôn giáo đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, sản xuất lâm nghiệp,
sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, làm cơ sở hoạt động từ thiện (kể cả trường
hợp nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho trước ngày 1/7/2004) thì được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất theo hình thức và thời hạn sử dụng đất tương ứng với mục đích đó như đối
với hộ gia đình, cá nhân.
Theo quy định của Luật
Đất đai và Nghị định số 43/2014 ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Đất đai thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với đất do cơ
sở tôn giáo đang sử dụng được quy định như sau:
Cơ sở
tôn giáo đang sử dụng đất có chùa..., Nhà nước cho phép hoạt động mà
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất phải tự rà soát, kê khai việc sử dụng đất và báo cáo UBND
cấp tỉnh theo các nội dung sau đây: Tổng diện tích đất đang sử dụng; diện tích
đất cơ sở tôn giáo phân theo từng nguồn gốc (Được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền giao; nhận chuyển nhượng; nhận tặng cho; mượn của tổ chức, hộ gia đình,
cá nhân; tự tạo lập; nguồn gốc khác; diện tích đất mà cơ sở tôn giáo đã cho tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân mượn, ở nhờ, thuê; diện tích đất đã bị người khác
lấn, chiếm).
Về phía UBND cấp tỉnh nơi
có đất phải tiến hành kiểm tra thực tế, xác định ranh giới cụ thể của thửa đất
và quyết định xử lý theo quy định sau đây:
Diện tích đất mà tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân đã sử dụng ổn định trước ngày 15/10/1993 thì căn cứ vào
nhu cầu sử dụng đất của cơ sở tôn giáo và tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đó để
giải quyết, nhằm bảo đảm quyền lợi về sử dụng đất của các bên phù hợp với thực
tế.
Diện tích đất mà tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân đã sử dụng từ ngày 15/10/ 1993 đến trước ngày 1/7/2004 thì
giải quyết như đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân mượn đất, thuê đất của
hộ gia đình, cá nhân khác theo quy định của pháp luật đất đai.
Diện tích đất mở rộng cơ
sở tôn giáo mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép; bị lấn, bị
chiếm; đang có tranh chấp thì UBND cấp tỉnh giải quyết dứt điểm theo quy định
của pháp luật.
Diện tích đất của cơ sở
tôn giáo sau khi đã xử lý theo quy định nêu trên nếu có đủ điều kiện quy định
tại Khoản 4 Điều 102 của Luật Đất đai thì cơ sở tôn giáo được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo
hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất với thời hạn sử dụng đất ổn định
lâu dài.
Đối với
quy định về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại khoản 1, Điều
105, Luật Đất đai 2013 thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất cho cơ sở tôn giáo. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được ủy quyền cho cơ
quan tài nguyên và môi trường cùng cấp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Theo
điểm h, điểm i Điều 5 Thông tư 23/2014, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
cơ sở tôn giáo ghi tên cơ sở tôn giáo và địa chỉ nơi có cơ sở tôn giáo so với
Luật Đất đai 2003 thì Luật Đất đai 2013 (và các văn bản hướng dẫn) quy định rõ
ràng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cơ sở tôn giáo phải ghi rõ tên chủ
thể sử dụng (điều này khắc phục được bất cập của Luật Đất đai 2003 vì Luật Đất
đai 2003 quy định không rõ ràng phải ghi chủ thể sử dụng đất của cơ sở tôn giáo
nên khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các cấp chính quyền địa
phương thường ghi tên người đứng đầu của cơ sở tôn giáo và tín ngưỡng; do đó,
khi những người đứng đầu cơ sở tôn giáo được tổ chức tôn giáo chuyển đến cơ sở
khác, hoặc bị chết thì sẽ rất khó khăn cho các cơ sở tôn giáo trong việc làm
thủ tục sửa chữa, tu bổ, xây dựng thêm cơ sở thờ tự).
Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.
Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.
Nhận xét
Đăng nhận xét