Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2018

HỢP ĐỒNG MUA BÁN ĐẤT BẰNG GIẤY TAY CÓ ĐƯỢC CÔNG NHẬN HAY KHÔNG? KHI PHÁT SINH TRANH CHẤP THÌ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH NHƯ THẾ NÀO ?


1. Hình thức hợp đồng mua bán đất
Tại khoản 1 Điều 502 Bộ luật dân sự 2015 thì Hợp đồng về quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản theo hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này, pháp luật về đất đai.
Ngoài ra, theo quy định pháp luật đất đai hiện hành thì các giao dịch chuyển nhượng đất đai phải được công chứng, chứng thực, trừ trường hợp một hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên. Bên cạnh đó, Khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định."
Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được công chứng hoặc chứng thực mới có hiệu lực pháp luật.

2. Hệ quả pháp lý khi phát sinh tranh chấp
Nếu các bên không công chứng, chứng thực hợp đồng này thì sẽ xảy ra một trong hai trường hợp sau:
Trường hợp 01:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015: “Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ÍT NHẤT HAI PHẦN BA NGHĨA VỤ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.” Như vậy, hợp đồng mua bán đất đai sẽ có hiệu lực theo phán quyết của tòa án.
Trường hợp 02:
Nếu một bên hoặc các bên chưa thực hiện được ÍT NHẤT HAI PHẦN BA NGHĨA VỤ trong giao dịch thì hợp đồng mua bán đất đai sẽ bị tuyên vô hiệu do vi phạm hình thức. Khi hợp đồng vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường heo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự 2015.


 Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét