Chuyển đến nội dung chính

NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN KHI HỎI CUNG BỊ CAN KHI ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ


Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự do Điều tra viên và những người có thẩm quyền khác tiến hành sau khi có quyết định khởi tố bị can nhằm mục đích thu thập các tình tiết về nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
1. Việc hỏi cung bị can nhằm phục vụ cho những mục đích gì ?
Thứ nhất, thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắng vụ án hình sự.
Bị can là người biết rõ về toàn bộ quá trình chuẩn bị, thực hiện và che giấu hành vi phạm tội, những mục đích, động cơ đã thúc đẩy bị can phạm tội; những công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội, phương pháp đã được bị can sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội, những tài sản đã chiếm đoat được…Vì vậy, khi hỏi cung bị can,  Điều tra viên cần áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật cho phép để có thể thu thập được tất cả những thông tin mà bị can biết, có liên quan đến vụ án nhằm làm rõ nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can, lập hồ sơ đề nghị xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ hai, tôn trọng và bảo đảm quyền con người.
Hiến pháp năm 2013 khẳng định tại Khoản 2 Điều 72 khẳng định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có  bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, do vậy bị can vẫn có đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà các quyền này phải được tôn trọng và đảm bảo thực hiện đầy đủ. Để quyền con người được tôn trọng và đảm bảo thực sự, pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) đòi hỏi những chủ thể có thẩm quyền hỏi cung phải thực hiện trách nhiệm của mình trong phạm vi pháp luật quy định, không được làm tùy tiện, vượt khỏi phạm vi giới hạn của luật dẫn đến việc xâm phạm các quyền   và lợi ích hợp pháp của công dân.

Thứ ba, những nhiệm vụ mang tính đặc trưng riêng của biện pháp hỏi cung bị can.
Khi tiến hành hỏi cung, một mặt chủ thể hỏi cung cần phải triệt để giải quyết những nhiệm vụ chung mà Bộ luật TTHS đã đặt ra, mặt khác cần phải giải quyết tốt những nhiệm vụ cụ thể mang tính đặc trưng riêng đó là: Phát hiện đồng bọn để kịp thời truy bắt, phát hiện những vật chứng còn cất giấu để kịp thời thu  giữ, phát hiện những âm mưu và hành động chuẩn bị gây án hay đang gây án để kịp thời ngăn chặn; Làm rõ nội dung vụ án, vai trò, vị trí và mức độ phạm tội của từng bị can, thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm, động cơ và mục đích phạm tội để lập hồ sơ đề nghị truy tố; Làm rõ những nguyên nhân    điều kiện phát sinh tội phạm và những sơ hở thiếu sót trong hoạt động điều tra để có biện pháp khắc phục, ngăn chặn.
2. Các nguyên tắc pháp lý phải tuân thủ khi thực hiện hỏi cung bị can.
Các hoạt động TTHS đều phải tuân thủ triệt để những nguyên tắc luật định được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan. Do đó, giai đoạn điều tra vụ án hình sự – vấn đề hỏi cung bị can -  một trong những giai đoạn của quá trình TTHS cũng không nằm ngoài phạm  vi điều chỉnh của các nguyên tắc này.
a.    Bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế XHCN là một nguyên tắc hiến định đã được quán triệt trong mọi hoạt động điều tra nói chung và hoạt động TTHS nói riêng của các cơ quan Nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền. Do vậy, hỏi cung bị can – một trong những biện pháp của giai đoạn tố tụng điều tra, giải quyết vụ án hình sự cũng không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc này: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định.” – Điều 7 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015.
Do những đặc thù cơ bản của biện pháp điều tra này nên việc vận dụng nguyên tắc pháp chế XHCN có những biểu hiện đặc thù riêng biệt. Theo đó, nguyên tắc trên chỉ được đánh giá là đã thực sự được tôn trọng và bảo đảm thực hiện trong quá trình hỏi cung bị can khi Điều tra viên quán triệt một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, trong mọi trường hợp hỏi cung bị can, Điều tra viên phải tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục về việc triệu tập bị can, trình tự tiến hành hỏi cung bị can và về việc lập biên bản hỏi cung đã được quy định trong các Điều 182, 183, 184 Bộ luật TTHS 2015.
Thứ hai, khi tiến hành hỏi cung bị can, Điều tra viên phải đảm bảo tôn trọng các quyền hạn tố tụng của bị can được quy định tại Điều 60 Bộ luật TTHS 2015 như bị can có quyền biết mình bị khởi tố về tội gì, có quyền đưa ra chứng cứ, đưa yêu cầu, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của pháp luật, có quyền tự bào chữa, … Ngoài ra khi tiến hành hỏi cung đối tượng là trẻ vị thành niên phải có mặt người đại diện hợp pháp của bị can.
Thứ ba, những vấn đề đưa ra giải thích, giáo dục bị can phải bảo đảm đúng pháp luật, đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, xác định rõ ranh giới giữa mình – một cán bộ điều tra xét hỏi được Nhà nước uỷ quyền có nhiệm vụ và quyền hạn điều tra với bị can – người bị xét hỏi có dấu hiệu phạm tội đã bị khởi tố; để luôn giữ vững được lập trường tư tưởng để đấu tranh, khai thác bị can trong suốt quá trình hỏi cung. Việc xác định rõ ràng ranh giới và kiên định lập trường tư tưởng của Điều tra viên sẽ giúp Điều tra viên không rơi vào trạng thái rụt rè, e ngại cũng như không khoan nhượng hữu khuynh dẫn đến để lọt người, lọt tội trong cuộc đấu tranh gay go phức tạp giữa Điều tra viên và bị can, bất kể chúng là loại tội phạm gì, ngoan cố tới đâu.
Thứ năm, Điều tra viên không được áp dụng những biện pháp thu thập lời khai trái với quy định cảu pháp luật như mớm cung, dụ cung, bức cung và dụng nhục hình. Mớm cung, dụ cung, bức cung và dụng nhục hình để lấy cung là một trogn những nguyên nhân gây ra oan sai cần phải loại bỏ triệt để, người có thẩm quyền điều tra mà có sai phạm thì cân phải xử lí nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Theo Khoản 5 điều 183 BLTTHS 2015 “Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.”
Thứ sáu, trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan sai, điều tra viên phải tích cực khẩn trương làm rõ và đề nghị giải quyết càng sớm càng tốt.
b. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc thận trọng và khách quan
Yêu cầu cơ bản của việc giải quyết vụ án hình sự là xác định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi phải làm rõ sự  thật của vụ án xảy ra. Để thực hiện nguyên tắc này, khi hỏi cung bị can điều tra viên phải đảm bảo thực hiên các việc sau:
Thứ nhất, hoạt động hỏi cung đòi hỏi Điều tra viên phải tôn trọng sự thật khách quan, không tùy tiện suy diễn chủ quan theo ý muốn của mình, “nghiêm cấm Điều tra viên bức dung hoặc dùng nhục hình dưới bất kì hình thức nào”. Bởi vì, trong quá trình hỏi cung bị can nếu Điều tra viên bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can không những dẫn đến không tôn trọng sự thật, làm mất tính khách quan của hoạt động điều tra mà còn xâm phạm đến quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ.
Thứ hai, Điều tra viên phải áp dụng các biện pháp phù hợp để kiểm tra, xác minh lời khai của bị can trước khi sử dụng.
Thứ ba, phải bảo đảm sự vô tư của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Theo Điều 21 BLTTHS 2015 thì “Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định, người định giá tài sản, người chứng kiến không được tham gia tố tụng nếu có lý do cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ.”. Khi tiến hành hỏi cung đòi hỏi Điều tra viên phải giữ được vô tư khi làm nhiệm vụ của mình trong mọi trường hợp. Họ phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật, tiến hành công việc của mình với thái độ thật sự công tâm, khách quan, vô tư, không được để những quan hệ, những tình cảm cá nhân chi phối vào công việc, không được có thái độ kiên định hay định kiến đối với bất kì bị can nào.
c. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc khác liên quan đến quyền  và lợi ích hợp pháp của bị can
Thứ nhất, bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can. Trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền bào chữa trong hoạt động này chủ yếu thuộc về phía CQĐT. Để bảo đảm thực hiện quyền này, CQĐT phải tạo những điều kiện cho bị can tự mình hoặc nhờ người khác thực hiện quyền bào chữa theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, bảo đảm thực hiện tiếng nói và chữ viết dùng trong hỏi cung bị can. Trong quá trình hỏi cung bị can, ngôn ngữ chínhthức dùng trong hoạt động hỏi cung bắt buộc là phải bằng tiếng Việt. Tuy nhiên, bên cạnh đó trong trường hợp bị can không sử dụng được tiếng Việt như bị can là người dân tộc thiểu số, người nước ngoài…thì họ có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần có người phiên dịch. Như vậy, trong hoạt động hỏi cung bị can việc  đảm bảo quyền bào  chữa và tiếng nói, chữ viết có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo quyền con người của bị can, giúp họ hiểu rõ quyền của mình đồng thời góp phần nhanh chóng kịp thời giải quyết vụ án, xác minh sự thật vụ án.


 Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có