Khi hòa giải không đạt kết quả và không có căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án thì tòa án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thời hạn mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng. Quyết định này được gửi cho các đương sự, viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định mà không phân biệt vụ án đó có sự tham gia của viện kiểm sát hay không. Trong trường hợp viện kiểm sát tham gia phiên tòa thì sau 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án từ tòa án thì viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ đó.
Phiên tòa sơ thẩm dân sự là phiên xử công khai và sau
cùng của giai đoạn tố tụng sơ thẩm thể hiện bằng bản án đối với một vụ tranh chấp dân sự. Điều 222 quy định yêu cầu chung đối với phiên tòa sơ thẩm: địa
điểm (Điều 223), hình thức bố trí phòng xử án (Điều 224) cũng như phương thức
xét xử (Điều 225). Theo đó, tòa án phải trực tiếp xác định những tình tiết của
vụ án bằng cách hỏi và nghe lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác; xem xét,
kiểm tra những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được; nghe kiểm sát viên phát
biểu ý kiến của viện kiểm sát về việc
giải quyết vụ án trong trường hợp có liểm sát viên tham gia phiên tòa.
Thành phần hội đồng xét xử tại phiên tòa sơ thẩm: Điều
63 BLTTDS 2015 quy định thành phần Hội đồng xét xử tại phiên tòa sơ thẩm gồm
một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, trừ trường hợp vụ án được xét xử theo
thủ tục rút gọn. Ngoài ra, nếu đương sự là người chưa thành niên, người lao
động, bên yếu thế thì để bảo vệ quyền lợi cho họ, theo quy định hội đồng xét xử
phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác tại đoàn thanh niên
CSHCM, hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, trẻ
em; người có kiến thức pháp luật về lao động. Bên cạnh đó, Điều 226 BLTTDS 2015
còn quy định cụ thể việc thay thế thành viên Hội đồng xét xử trong trường hợp
thẩm phán, hội thẩm nhân dân không thể tiếp tục tham gia xét xử vụ án thì phải
có thẩm phán, hội thẩm nhân dân sự khuyết.
Thành phần tham gia phiên tòa sơ thẩm bao gồm: đương
sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợ pháp của
đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và kiểm sát viên
trong một số trường hợp. Có một số điểm lưu ý về sự có mặt của những thành phần
trên:
-
Thứ nhất, sự có mặt của đương sự, người đại diện,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Về nguyên tắc, khi được tòa
án triệu tập hợp lệ thì đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ phải có mặt tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, để tạo điều kiện
tham gia phiên tòa thì Điều 227 BLTTDS 2015 nêu rõ khi đương sự, người đại
diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ vắng mặt trong lần triệu
tập hợp lệ lần thứ nhất thì hội đồng xét xử hoãn phiên tòa dù có hay không có
lý do chính đáng, trừ trường hợp đề nghị xét xử vắng mặt. Trong lần triệu tập
hợp lệ lần thứ hai, nếu sự vắng mặt là có lý do chính đáng hoặc do trở ngại
khách quan, không thể tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của tòa thì tòa án
hoãn phiên tòa, trừ trường hợp có đơn xét xử vắng mặt. Những trường hợp vắng
mặt khác thì nguyên đơn sẽ bị coi là từ bỏ việc khởi kiện, bị đơn sẽ bị coi là
từ bỏ yêu cầu phản tố của nguyên đơn và những hậu quả pháp lý khác làm chấm dứt
quyền phản tố và yêu cầu đối với tòa án.
-
Thứ hai, sự có mặt của người làm chứng. Theo quy
định tại Diều 229 BLTTDS 2015 thì người làm chứng có nghĩa vụ tham gia phiên
tòa theo giấy triệu tập của tòa án để làm sáng tỏ một số tình tiết của vụ án,
đảm bảo tính khách quan, đúng đắn của kết quả giải quyết vụ án. Trong trường
hợp người làm chứng vắng mặt thì hội đồng xét xử quyết định vẫn tiếp tục tiến
hành xét xử (nếu trước đó đã có lời khai trực tiếp với tòa hoặc đã gửi lời khai
cho tòa án) hay hoãn phiên tòa (nếu việc vắng mặt của người làm chứng gây khó
khăn, ảnh hưởng đến việc giải quyết khách quan, toàn diện vụ án).
-
Thứ ba, sự có mặt của người giám định, người phiên
dịch. Theo các Điều 230 và 231 BLTTDS 2015 thì người giám định, người phiên
dịch có nghĩa vụ tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của tòa án. Tùy trường
hợp mà Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa hay vẫn tiến hành xét xử
nếu người giám định vắng mặt. Đối với người phiên dịch, khi vắng mặt mà không
có người thay thế thì hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa để đảm bảo
tiếng nói, chữ viết trong tố tụng.
-
Thứ tư, sự có mặt của Kiểm sát viên. Viện kiểm
sát là cơ quan tiến hành tố tụng được giao thực hiện nhiệm vụ kiểm sát hoạt
động tư pháp. Căn cứ theo khoản 2 Điều 21 BLTTDS 2015 thì Viện kiểm sát chỉ
tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do tòa án tiến hành thu thập
chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp
là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự
là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Trong trường hợp trên, Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân
công tham gia phiên tòa. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn
tiến hành xét xử mà không hoãn phiên tòa hoặc có Viện kiểm sát dự khuyết tham
gia phiên tòa thì họ phải tham gia phiên tòa ngay từ đầu. Trường hợp không có
Kiểm sát viên dự khuyết thì Hội đồng xứt xử phải hoãn phiên tòa theo quy định
tại Điều 62 BLTTDS 2015.
Trường hợp hoãn phiên tòa sơ thẩm, tại Điều 233 BLTTDS
2015 thì thời hạn hõa phiên toàn là không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định
hoãn phiên tòa. Trong thời hạn nàu, tòa án phải có kế hoạch mở lại phiên toàn
theo đúng thời gian, địa điểm ghi trong quyết định hoãn để đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự. Trong trường hợp không thể mở lại phiên tòa theo
đúng như trên thì tòa án phải thông báo ngay cho viện kiểm sát cùng cấp và
những người tham gia tố tụng biết về thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa.
Trường hợp tạm ngừng phiên tòa, khi thấy cần thiết
phải thêm thời gian để khắc phục những khó khăn gây ảnh hưởng đến việc tiếp
diễn của phiên toà, hoặc để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn thì
khi đó, việc tạm ngừng phiên tòa là cần thiết. Những trường hợp để ra quyết
định tạm ngừng phiên tòa căn cứ vào Điều 259 BLTTDS 2015. Đồng thời, thời hạn
tạm ngừng phiên toàn là không quá 01 tháng, kể từ ngày Hội đồng xứt xử ra quyết
định tạm ngừng phiên tòa.
Trình tự, thủ tục trong phiên tòa sơ thẩm được quy
định tại các Mục 2 (bắt đầu phiên tòa), Mục 3 (tranh tụng tại phiên tòa), Mục 4
(Nghị án và tuyên án) diễn ra đúng theo quy định của BLTTDS 2015.
Sau khi hỏi các đương sự về việc bổ sung hay rút một
phần, toàn bộ yêu cầu khởi kiện thì thủ tục tranh tụng tại phiên tòa được xem
là phần quan trọng nhất trong nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự. Bởi
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự sẽ nêu ra những luận điểm,
căn cứ pháp lý để bảo vệ những quan điểm của mình, chứng minh những lập luận,
quan điểm đó là có căn cứ trước hội đồng xét xử, là cơ sở để Hội đồng xét xử
thu thập ý kiến, xem xét và ra quyết định đúng đắn nhất.
Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.
Nhận xét
Đăng nhận xét