Chuyển đến nội dung chính

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ

1.Thời hạn chuẩn bị xét xử
Tại Điều 203 BLTTDS 2015 thì thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án thông thường (trừ những vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài) như sau:
-            Đối với vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình: thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án; có thể được gia hạn thêm nhưng không quá 02 tháng.
-            Đối với vụ án kinh doanh, thương mại, lao động: thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án; có thể được gia hạn thêm nhưng không quá 01 tháng.


2.  Các hoạt động chuẩn bị xét xử
  • Phân công thẩm phán giải quyết vụ án

Theo Điều 197 BLTTDS 2015, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án trên nguyên tắc khách quan, vô tư, ngẫu nhiên. Theo đó, thẩm phán phải thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công của chánh án như sau:
-            Lập hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 198 BLTTDS 2015;

-            Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác.
-            Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng;
-            Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án;
-            Xác minh, thu thập chứng cứ;
-            Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời;
-            Tổ chức phiên họp kiểm gia việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn;
-            Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định.
Chánh án bên cạnh lập một danh sách thẩm phán tham gia xét xử vụ án thì vẫn phải lập một danh sách dự khuyết phân công thẩm phán khác tham gia xét xử nếu thẩm phán được phân công ban đầu không thể tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ; nếu không có thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu.
  • Thông báo về việc thụ lý vụ án

Sau khi thụ lý vụ án, thẩm phán phải ra thông báo bằng văn bản cho đương sự, viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án. Khi nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án của tòa án, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập (nếu có) trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Trong trường hợp người được thông báo  có đơn xin gia hạn và việc gia hạn là có căn cứ thì tòa án phỉa gia hạn nhưng không được vượt quá 15 ngày.  Việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện theo thủ tục khởi kiện của nguyên đơn.
  • Lập hồ sơ vụ án

Căn cứ vào yêu cầu của người khởi kiện, tòa án xác định các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án để yêu cầu đương sự hoặc tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự không thể tự mình thu thập được và có yêu cầu tòa án thu thập hoặc trong các trường hợp luật có quy định khác. Khi nhận được chứng cứ do đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hoặc do thu thấp được thì tòa án phỉa đưa chúng vào hồ sơ vụ án. Theo Điều 204 BLTTDS 2015 thì hồ sơ vụ án bao gồm đơn và toàn bộ tài liệu, chứng cứ của đương sự, người tham gia tố tụng khác; tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập liên quan đến vụ án; văn bản tố tụng của Tòa án, Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án dân sự. Các giấy tờ, tài liệu này phải được đánh số bút lục, sắp xếp theo thứ tự và được quản lý, lưu giữ, sử dụng đúng theo pháp luật.
  • Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải

Đối với phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ: theo quy định tại Điều 208 BLTTDS 2015, sau khi thông báo cho đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan biết về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp thì thẩm phán tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ. Trong phiên họp, ngoài thẩm phán là người chủ trì phiên họp và đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự thì còn có Thư ký Tòa án là người ghi biên bản phiên họp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có), người phiên dịch và một số cá nhân, tổ chức khác. Về trình tự thủ tục phiên họp, Điều 210 BLTTDS 2015:
-            Trước khi tiến hành phiên họp, Thư ký Tòa án báo cáo Thẩm phán về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp đã được Tòa án thông báo. Thẩm phán chủ trì phiên họp kiểm tra lại sự có mặt và căn cước của những người tham gia, phổ biến cho các đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ.
-            Thẩm phán công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
-            Hỏi đương sự về yêu cầu và phạm vi khởi kiện, việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết.
-            Thư ký đọc biên bản họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai tài liệu chứng cứ. Nếu hai bên không có ý kiến gì khác thì hai bên ký vào tất cả các trang của biên bản, riêng trang cuối cùng ký và ghi rõ họ tên.
Đối với phiên hòa giải: việc bắt buộc hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm sẽ giúp các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự, trừ những vụ án không được hòa giải (Điều 206 BLTTDS 2015), không tiến hành hòa giải được theo quy định và những vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Trước đó,
Thẩm phán phải thông báo cho đương sự, người địa diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành và nội dung phiên họp. Thành phần của phiên hòa giải cũng đồng thời là thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ. Về thủ tục tiến hành hòa giải trước phiên tòa sơ thẩm chỉ áp dụng đối với những vụ án được giải quyết theo thủ tục thông thường (những vụ án theo thủ tục rút gọn thì không tiến hành hòa giải trước phiên tòa mà chỉ tiến hành hòa giải tại phiên tòa). Ngoài ra, Tòa án không tiến hành hòa giải đối với những vụ án không được hòa giải (như những vụ án liên quan đến yêu cầu bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước,...) hoặc những vụ án không tiến hành hòa giải được (như vụ án mà tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà bị đơn vẫn cố tình vắng mặt hoặc đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng,...). Thủ tục hòa giải được thực hiện theo khoản 4 Điều 210 BLTTDS 2015 như sau:
-            Thẩm phán phổ biến cho các đương sự về các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các đương sự liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành để họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án;
-            Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày nội dung tranh chấp, bổ sung yêu cầu khởi kiện; những căn cứ để bảo vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có)
-            Bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu có); những căn cứ để phản đối yêu cầu của nguyên đơn; những căn cứ để bảo vệ yêu cầu phản tố của mình và đề xuất quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có)
-            Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn; trình bày yêu cầu độc lập của mình (nếu có)
-            Người khác tham gia phiên họp hòa giải (nếu có) phát biểu ý kiến;
-            Sau khi các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn đề các đương sự đã thống nhất, chưa thống nhất và yêu cầu các đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất;
-            Thẩm phán kết luận về những vấn đề các đương sự đã thống nhất, chưa thống nhất.

Việc hòa giải phải được lập thành biên bản, trong đó ghi rõ ý kiến của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; những nội dung mà các đương sự thống nhất hoặc không thống nhất và phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia phiên họp; sau đó có quyền được xem biên bản sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu những sửa đổi, bổ sung và ký xác nhận hoặc điểm chỉ. Trường hợp đương sự thỏa thuận được về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì tòa án lập biên bản hòa giải thành và được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải. Sau thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào có ý kiến thay đổi sự thỏa thuận đó thì thẩm phán chủ trì phiên hòa giải đó sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự (Điều 212 BLTTDS 2017). Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đướngự phải được gửi cho các đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp trong thòi hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay, không bị kháng cáo kháng nghị  theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

 Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có