Chuyển đến nội dung chính

CÁC ĐIỀU KHOẢN CƠ BẢN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA (PHẦN 2)

e. Phương thức thanh toán

Hình thức thanh toán
Bên mua có thể thanh toán tiền hàng cho bên bán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản.
Giai đoạn thanh toán
Theo sự thỏa thuận của các bên mà có thể có hai giai đoạn thanh toán: Bằng tiền mặt ngay sau khi nhận hàng hoặc chuyển khoản sau khi đồng ý thực hiện hợp đồng và nhận hàng sau đó.
f. Thời điểm chuyển giao quyền và nghĩa vụ

Thời điểm giao nhận hàng
Các bên có thể thỏa thuận với nhau về việc giao hàng trong một thời hạn hay tại một thời điểm. Thời điểm giao nhận hàng là một thời điểm cụ thể do các bên thỏa thuận mà khi đến thời điểm đó, bên bán có nghĩa vụ giao hàng, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng. Khi qua thời điểm đó, hợp đồng mua bán đã thỏa thuận mặc nhiên không có hiệu lực. Vì thế, thời điểm bên bán giao hàng cũng là thời điểm bên mua nhận hàng. Theo quy định tại Điều 37 Luật thương mại 2005 về thời hạn giao hàng thì:
-            Bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thoả thuận trong hợp đồng.

-            Trường hợp chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao hàng mà không xác định thời điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có quyền giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn đó và phải thông báo trước cho bên mua.
-            Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng.
Nếu bên bán giao hàng trước thời điểm đã thảo thuận thì bên mua có quyền không nhận hàng nếu các bên không có thỏa thuận khác (Điều 38 Luật thương mại 2005).

Thời điểm chuyển giao quyền sở hữu
Theo Điều 62 Luật thương mại 2005 thì trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác, quyền sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng hóa được chuyển giao.

Xác định trách nhiệm chịu rủi ro trong quá trình chuyển giao quyền sở hữu
Trách nhiệm chịu rủi ro trong quá trình chuyển giao quyền sở hữu thuộc các trường hợp sau (quy định theo các Điều 57, 58, 59, 60 và 61 Luật thương mại 2005):
-            Chuyển rủi ro trong trường hợp có địa điểm giao hàng xác định: bên vi phạm nghĩa vụ giao – nhận sẽ là bên phải gánh chịu rủi ro.
-            Chuyển rủi ro trong trường hợp không có địa điểm giao hàng xác định: Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng hoá và bên bán không có nghĩa vụ giao hàng tại một địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua khi hàng hoá đã được giao cho người vận chuyển đầu tiên.
Chuyển rủi ro trong trường hợp giao hàng cho người nhận hàng để giao mà không phải là người vận chuyển: Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu hàng hoá đang được người nhận hàng để giao nắm giữ mà không phải là người vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua thuộc một trong các trường hợp sau đây: Khi bên mua nhận được chứng từ sở hữu hàng hoá; Khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hoá của bên mua.
-            Chuyển rủi ro trong trường hợp mua bán hàng hoá đang trên đường vận chuyển: nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hoá đang trên đường vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm giao kết hợp đồng. Đối với trường hợp hàng hóa đã được mua bán và đang trong thời gian vận chuyển, do bên bán chưa giao hàng đến được địa điểm xác định mà các bên thỏa thuận, nên bên bán sẽ phải gánh chịu rủi ro.
-            Rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá (không thuộc các trường hợp nêu trên) được chuyển cho bên mua, kể từ thời điểm hàng hóa thuộc quyền định đoạt của bên mua và bên mua vi phạm hợp đồng do không nhận hàng

Xác định các chi phí thực hiện chuyển giao:
Bao gồm:
-            Phí vận chuyển;
-            Bảo hiểm hàng hóa;
-            Phí bốc, xếp hàng hóa;
-            Phí nhận gửi hàng hóa;
-            ...
g. Quyền và nghĩa vụ của các bên
Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng song vụ, do đó quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia. Ngoài những điều khoản do hai bên thỏa thuận thì quyền và nghĩa vụ của các bên còn do Luật thương mại quy định tại Mục 2. Cụ thể như sau:
Nghĩa vụ của bên bán
-            Giao hàng và chứng từ liên quan đến hàng hóa: Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng (Khoản 1 Điều 34 Luật thương mại 2005).
-            Giao hàng đúng thời hạn và địa điểm đã thỏa thuận trong hợp đồng.
-            Kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng
-            Bảo đảm quyền sở hữu đối với hàng hóa
-            Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa
-            Trong trường hợp hàng hóa là đối tượng của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
-            Bảo hành hàng hóa
Nghĩa vụ của bên mua
-            Nhận hàng
-            Thanh toán tiền hàng cho bên bán

h. Bất khả kháng
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép (Điều 156 Bộ luật dân sự 2015).
Theo đó, bên vi phạm sẽ được miễn trách nhiệm, không phải chịu các chế tài do hành vi vi phạm của mình gây ra nếu chứng minh được những trở ngại dẫn đến những sự kiện ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của các bên thực hiện, không thể né tránh hoặc khắc phục nó kịp thời (điểm b khoản 1 Điều 294 Luật thương mại 2005).
Các sự kiên bất khả kháng có thể xuất phát từ các nhuyên nhân như:
- Thiên tai (bão, lũ, lốc xoáy, dộng đất, sạc lở,...).
- Nổ, cháy, hủy diệt máy móc, nhà xưởng.
- Cuộc đình công, tẩy chay, chiếm giữ nhà xưởng và cơ sở.
- Chiến tranh, cướp bóc, phá hoại, nội chiến xảy ra bất ngờ.
- ...
Khi có sự kiện bất khả kháng ngoài ý muốn, các bên có thể thỏa thuận để kép dài thực hiện hợp đồng và thông báo cho bên kia biết về tình trạng xảy ra (Điều 296 Luật thương mại 2005).

i. Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng
Bồi thường thiệt hại
Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ thể nào thì có các căn cứ áp dụng:
-            Có hành vi vi phạm hợp đồng;
-            Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra;
-            Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế;
-            Có yếu tố lỗi của bên vi phạm.
Về nguyên tắc, bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm. Tuy nhiên cần phải chứng minh yếu tố lỗi của bên vi phạm gây ra thì mới áp dụng.
Chế tài thương mại
Việc vi phạm các nghĩa vụ theo hợp đồng mua bán (không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ) sẽ dẫn đến bên vi phạm phải chịu những chế tài do pháp luật quy định. Ngoài chế tài bồi thường thiệt hại thì có thể có các chế tài thương mại khác mà hai bên chủ thể áp dụng:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng: khi có hành vi vi phạm hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm.
- Phạt hợp đồng: do một bên vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng theo đúng cam kết thì phải trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận.
- Tạm ngừng, đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng: một bên tạm thời không thwucj hiện nghĩa vụ, chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hoặc hủy bỏ hiệu lực của hợp đồng đã giao kết. Trường hợp hủy bỏ hợp đồng thì bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.

j. Cơ chế giải quyết tranh chấp

Luật áp dụng giải quyết tranh chấp: do các chủ thể lựa chọn. Trường hợp nếu các bên đều là thương nhân thì ưu tiên Luật thương mại để áp dụng. Những thỏa thuận khác có thể áp dụng Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp,... các văn bản khác có liên quan.
Cơ quan giải quyết tranh chấp
Tranh chấp có thể được đưa ra Tòa án có thẩm quyền hoặc Trọng tài thương mại để giải quyết.

k. Điều khoản chung


Thời điểm hợp đồng có hiệu lực
Khoản 1 Điều 401 Bộ luật dân sự 2015 : “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Đây là nguyên tắc chung khi giao kết hợp đồng dân sự nói chung. Mặt khác, tùy theo ý chí, sự thỏa thuận giữa các bên ký kết trong hợp đồng mua bán hàng hóa về hiệu lực của hợp đồng thì có thể:
-            Hợp đồng có hiệu lực vào một thời điểm sau khi giao kết hoặc sau một thời hạn nhất định mà khi hết thời hạn đó, hợp đồng đương nhiên sẽ không còn hiệu lực.
-            Hợp đồng có hiệu lực khi có chứng nhận của cơ quan thứ ba (hợp đồng liên quan đến bất động sản).
Số ấn bản hợp đồng
Theo thỏa thuận thì hợp đồng có thể được lập thành ít nhất 02 bản, mỗi bên giữ ít nhất 01 bản, các bản hợp đồng này đều có giá trị pháp lý như nhau.

Các điều khoản thỏa thuận riêng biệt phù hợp với quy định pháp luật
Bao gồm các điều khoản như:
- Địa điểm chuyển giao tài sản: theo quy định tại Điều 35 về địa điểm giao hàng và theo các bên đã thỏa thuận trước khi ký kết hợp đồng mà địa điểm giao nhận có thể là tại nơi có hàng hóa (gắn liền với bất động sản) hoặc địa điểm nơi người bán, người nhận.
- Các trường hợp chấm dứt hợp đồng khi một trong các bên vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng dẫn đến hợp đồng không thể thực hiện được thì bên còn lại phải đơn phương chấm dứt hợp đồng. Điều này do các bên thỏa thuận.

- Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng: do hai bên thỏa thuận riêng.


 Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có