Chuyển đến nội dung chính

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM (PHẦN 1)

1. Khái niệm:
Tội phạm pháp nhân thương mại liên quan đến bảo hiểm được hiểu như thế nào?
Những điều luật trong Bộ luật hình sự 2015 quy định về những hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng bảo hiểm hoặc gian dối trong kinh doanh bảo hiểm sẽ bị xử lý hình sự. Cụ thể:
Khoản 5 Điều 216. Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.
5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng.
Khoản 5 Điều 213. Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm.

5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, với số tiền chiếm đoạt từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 400.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng, thì bị phạt tiền 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều này, với số tiền chiếm đoạt từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;
c) Phạm tội với số tiền chiếm đoạt 3.000.000.000 đồng trở lên hoặc gây thiệt hại 5.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 7.000.000.000 đồng;
d) Pháp nhân thương mại còn có thể bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

Qua những quy định pháp luật hình sự trên, ta có thể nhận thấy:
a) Khách thể:
-  Hành vi phạm tội này xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước ta trong lĩnh vực bảo hiểm, bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động.
-  Đối tượng của hành vi phạm tội: những loại bảo hiểm mà Nhà nước quy định cho quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động. Đối tượng của hành vi phạm tội bao gồm một trong các bộ phận sau:
Một là, chủ thể của quan hệ xã hội: người lao động.
Hai là, nội dung của các quan hệ pháp luật: Quan hệ xã hội xâm phạm đến quyền và lợi ích của người lao động khi tham gia đóng bảo hiểm.
Ba là, đối tượng tác động của các quan hệ xã hội:
§  Bảo hiểm y tế: khoản 1 Điêu 1 Luật bảo hiểm y tế sửa đổi 2014 thì: Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với các đối tượng theo quy định của Luật này để chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện.”
§  Bảo hiểm xã hội: khoản 1 Điều 3 Luật bảo hiểm xã hội 2014 thì: Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
§  Bảo hiểm thất nghiệp: là trả lại tiền mặt cho người lao động khi họ bị mất việc làm.
b) Mặt khách quan:  
-  Hành vi: là hành vi:
+ Trốn tránh trách nhiệm thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ với người lao động và theo pháp luật về bảo hiểm quy định.
+ Sử dụng những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt nhằm che giấu, lừa dối với cơ quan có thẩm quyền nhằm hưởng những lợi ích về bảo hiểm mà thực tế sẽ không được hưởng.
Những hành vi này đều được biểu hiện hoặc là tự chủ thể phạm tội tự mình thực hiện hành vi phạm tội hoặc là ủy quyền người khác thực hiện thay mình. Mặt khác những hành vi này đều xâm phạm không những đến chính sách quản lý của Nhà nước ta, mà còn đến an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khác, gây khó khăn trong công tác quản lý, kiểm soát và ngăn chặn hành vi phạm tội này.
-  Được thể hiện dưới dạng hành động.
-  Hậu quả: do những hành vi này gây ra là thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất;
-  Mối quan hệ nhân – quả: kép trực tiếp. Quan hệ nhân quả này do nhiều hành vi trái pháp luật cùng đóng vai trò là nguyên nhân dẫn đến hậu quả.
-  Những yếu tố khác:
· Phương tiện, công cụ phạm tội: bằng những hóa đơn chứng từ giả mạo có trong hồ sơ bảo hiểm.
· Phương pháp, thủ đoạn phạm tội: thực hiện bằng những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt nhằm che giấu, lừa dối cơ quan chức năng để được hưởng lợi ích từ hành vi gian dối đó; xúi giục người lao động không tham gia bảo hiểm xã hội.
· Thời điểm hoàn thành tội phạm: tính từ thời điểm chủ thể phạm tội hoàn thành việc gian dối của mình hoặc từ lúc người sử dụng lao động xúi giục thành công người lao động không tham gia bảo hiểm.
c) Chủ thể: là pháp nhân thương mại. Vì tự bản thân pháp nhân có thể nhận thức và điều khiển được hành vi phạm tội của mình hoặc của những người đại diện cho pháp nhân đó.
d) Mặt chủ quan:
Yếu tố lỗi: của hành vi này là lỗi cố ý.Vì chủ thể phạm tội nhận thức rõ được rằng hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả trái phép của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì muốn thu được lợi nhuận cao nên họ vẫn tiếp tục thực hiện hành vi đó và đã đoán trước được hậu quả xảy ra nếu bị phát hiện.
-         Động cơ: hưởng lợi ích bảo hiểm từ những hành vi gian lận đó.

-         Mục đích: thực hiện sự gian lận gây nhầm lẫn trong kinh doanh bảo hiểm; trốn tránh nghĩa vụ nộp bảo hiểm cho người lao động.
Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có

Thủ tục hòa giải bắt buộc trước khi khởi kiện

Tranh chấp đất đai vốn là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Đây cũng là  một trong những loại tranh chấp phổ biến nhất hiện nay. Khi phát sinh tranh chấp, hòa giải là phương án giải quyết ban đầu nhằm hạn chế tối đa những mâu thuẫn. Việc hòa giải có thể do các bên tự thương lượng hoặc thông qua một bên trung gian thứ ba trước khi khởi kiện nếu buộc phải giải quyết tại một cơ quan tài phán trong một số trường hợp nhất định. Trong bài viết này, ThS - Luật sư Phan Mạnh Thăng sẽ chia sẻ cụ thể về vấn đề trên. Hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm và đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm Hòa giải là một trong các phương pháp giải quyết trong tranh chấp đất đai. Theo đó bên thứ ba sẽ đóng vai trò là trung gian giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp để giải quyết tranh chấp. Bằng cách thương lượng, thuyết phục cùng với thiện chí của các bên thì tranh chấp sẽ được giải quyết một cách ôn hòa. Đặc điểm         Hiện nay về hò

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý?

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý dành cho các bậc phụ huynh khi có dấu hiệu học phí đầu năm ngày càng tăng. Về các khoản học phí được phép thu đã được pháp luật quy định cụ thể. Trường hợp nhà trường thu học phí sai quy định pháp luật sẽ bị xử lý về hành vi lạm thu học phí. Việc này thường xảy ra do các bậc cha mẹ không nắm rõ quy định. Sau đây, Thạc sĩ - Luật sư Phan Mạnh Thăng xin cung cấp nội dung về vấn đề trên. Hành vi lạm thu học phí đầu năm Các khoản thu nào nhà trường không được phép thu?           Theo Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT thì các khoản phụ phí đầu năm sẽ được thu qua Ban đại diện cha mẹ học sinh theo nguyên tắc tự nguyện. Tuy nhiên, trên thực tế các khoản phí này thường được Ban đại diện cha mẹ học sinh nhờ nhà trường thu hộ và được thu như phí bắt buộc.           Căn cứ khoản 4 Điều 10 Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT quy định những khoản Ban đại diện cha mẹ học sinh không được phép quyên góp là: Các khoản ủng hộ không theo nguyên tắc tự nguyện Bảo vệ