Chuyển đến nội dung chính

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ PHÁP NHÂN TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN (PHẦN 4)


b)     Đối với tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán: 
Để tránh tình trạng bị khởi tố hình sự, pháp nhân thương mại cần:
·        Điều kiện về chủ thể:
-                 Một là, tẩu tán trách nhiệm này cho một cá nhân, tổ chức khác mà đảm bảo yếu tố “không cấu kết”.
-                 Hai là, triệt tiêu tư cách chủ thể: thành lập một tổ chức dự phòng không phải là pháp nhân thương mại.
-                 Ba, triệt tiêu tư cách pháp nhân: việc thực hiện hành vi phạm tội vì không nhận thức được hành vi của mình là phạm tội, không ngăn chặn kịp thời và hậu quả vẫn xảy xa không như mong muốn.
·        Điều kiện về khách thể:
Chỉ duy nhất một yếu tố trong khách thể có thể triệt tiêu được dấu hiệu hình sự, đó chính là đối tượng tác động của các quan hệ xã hội:
Phải đảm bảo đúng tiêu chí về khái niệm của vật thể thì mới có thể khởi tố hình sự được. Trong đó, đối tượng của tội phạm này chỉ bao gồm những thông tin đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố:

§  Theo quy định của điều 25 Luật chứng khoán 2006 thì định nghĩa về công ty đại chúng được hiểu như sau: “Công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong ba loại hình sau: (1) Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chứng; (2) Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán; (3) Công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên”.
§  Theo khoản 28 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 thì Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng.

·        Điều kiện về mặt khách quan:
Một là, phải đảm bảo đúng khái niệm về mặt hành vi của tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán thì mới khởi tố được:
§   Theo khoản 3 Điều 9 Luật chứng khoán 2006 thì những hành vi bao gồm: “3. Sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán cho chính mình hoặc cho người khác; tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho người khác mua, bán chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ.
§   Theo khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch 10/2013/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTC: “Hành vi sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán bao gồm:
a) Sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán cho chính mình;
b) Sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán cho người khác;
c) Tiết lộ thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho người khác mua, bán chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ.

Hai là, gây ra hậu quả nghiêm trọng là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm này. Theo đó, hậu quả do hành vi này gây ra là thiệt hại cả về vật chất (gây thiệt hại cho nhà đầu tư từ 500.000.000 đồng trở lên) và về phi vật chất (gây ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách pháp luật của Nhà nước về thông tin nội bộ trong hoạt động chứng khoán; làm mất niêm tin của nhiều nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán; làm ảnh hưởng đến tính minh bạch, công khai và an toàn của thị trường chứng khoán).
Ba là, hành vi tác động là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả. Nếu chủ thể phạm tội thực hiện đúng hành vi mà không dẫn đến hậu quả như phân tích ở trên thì không bị khởi tố hình sự.
Bốn là, triệt tiêu được yếu tố phương tiện, công cụ phạm tội: nếu những thông tin mà chủ thể biết không nằm trong những thông tin nội bộ quan trọng và không có ảnh hưởng đến giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng.
Năm là, triệt tiêu được yếu tố thời điểm tội phạm hoàn thành: khi chủ thể phạm tội chưa thực hiện xong hành vi tiết lộ, cung cấp hoặc tư vấn thông tin nội bộ này.
·                     Điều kiện về mặt chủ quan: 
Lỗi của hành vi này là lỗi cố ý, động cơ và mục đích là nhằm thu lợi bất hợp pháp. Tuy nhiên có thể tẩu tán trách nhiệm này bằng cách:
-  Hậu quả do hành vi này gây ra không ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng, hoặc gây ra thiệt hại về vật chất không lớn cho nhà đầu tư (dưới 500.000.000 đồng).

-  Động cơ của hành vi phạm tội này không nhằm mục đích sinh lợi bất hợp pháp.


Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có

Thủ tục hòa giải bắt buộc trước khi khởi kiện

Tranh chấp đất đai vốn là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Đây cũng là  một trong những loại tranh chấp phổ biến nhất hiện nay. Khi phát sinh tranh chấp, hòa giải là phương án giải quyết ban đầu nhằm hạn chế tối đa những mâu thuẫn. Việc hòa giải có thể do các bên tự thương lượng hoặc thông qua một bên trung gian thứ ba trước khi khởi kiện nếu buộc phải giải quyết tại một cơ quan tài phán trong một số trường hợp nhất định. Trong bài viết này, ThS - Luật sư Phan Mạnh Thăng sẽ chia sẻ cụ thể về vấn đề trên. Hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm và đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm Hòa giải là một trong các phương pháp giải quyết trong tranh chấp đất đai. Theo đó bên thứ ba sẽ đóng vai trò là trung gian giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp để giải quyết tranh chấp. Bằng cách thương lượng, thuyết phục cùng với thiện chí của các bên thì tranh chấp sẽ được giải quyết một cách ôn hòa. Đặc điểm         Hiện nay về hò

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý?

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý dành cho các bậc phụ huynh khi có dấu hiệu học phí đầu năm ngày càng tăng. Về các khoản học phí được phép thu đã được pháp luật quy định cụ thể. Trường hợp nhà trường thu học phí sai quy định pháp luật sẽ bị xử lý về hành vi lạm thu học phí. Việc này thường xảy ra do các bậc cha mẹ không nắm rõ quy định. Sau đây, Thạc sĩ - Luật sư Phan Mạnh Thăng xin cung cấp nội dung về vấn đề trên. Hành vi lạm thu học phí đầu năm Các khoản thu nào nhà trường không được phép thu?           Theo Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT thì các khoản phụ phí đầu năm sẽ được thu qua Ban đại diện cha mẹ học sinh theo nguyên tắc tự nguyện. Tuy nhiên, trên thực tế các khoản phí này thường được Ban đại diện cha mẹ học sinh nhờ nhà trường thu hộ và được thu như phí bắt buộc.           Căn cứ khoản 4 Điều 10 Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT quy định những khoản Ban đại diện cha mẹ học sinh không được phép quyên góp là: Các khoản ủng hộ không theo nguyên tắc tự nguyện Bảo vệ