Chuyển đến nội dung chính

TỘI PHẠM PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI LIÊN QUAN ĐẾN MÔI TRƯỜNG (PHẦN 4)


b)  Đối với tội vi phạm các quy định về khai thác bảo vệ rừng và quản lý lâm sản:

Để tránh tình trạng bị khởi tố hình sự, pháp nhân thương mại cần:
·        Điều kiện về chủ thể:
-                 Một là, tẩu tán trách nhiệm này cho một cá nhân, tổ chức khác mà đảm bảo yếu tố “không cấu kết”.
-                 Hai là, triệt tiêu tư cách chủ thể: thành lập một tổ chức dự phòng không phải là pháp nhân thương mại.

-                 Ba, triệt tiêu tư cách pháp nhân: việc thực hiện hành vi phạm tội vì không nhận thức được hành vi của mình là phạm tội, không ngăn chặn kịp thời và hậu quả vẫn xảy xa không như mong muốn.

·        Điều kiện về khách thể:
Chỉ duy nhất một yếu tố trong khách thể có thể triệt tiêu được dấu hiệu hình sự, đó chính là đối tượng tác động của các quan hệ xã hội:
Một là, phải đảm bảo đúng tiêu chí về khái niệm của vật thể thì mới có thể khởi tố hình sự được. Trong đó, đối tượng của tội phạm này chỉ bao gồm rừng, lâm sản, các loài động, thực vật rừng:

-  Rừng: tại khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển rừng 2004 có quy định: Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng.. Trong đó, rừng bao gồm rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất.
-  Lâm sản: khoản 19 Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển rừng 2004 có quy định: Lâm sản là sản phẩm khai thác từ rừng gồm thực vật rừng, động vật rừng và các sinh vật rừng khác. Lâm sản gồm gỗ và lâm sản ngoài gỗ.
-  Thực vật rừng, động vật rừng: tại khoản 2 Nghị định 32/2006.NĐ-CP quy định quản lý thực vật, động vật rừng cấp nguy hiểm:
1. Giải thích từ ngữ: Loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm là loài thực vật, động vật có giá trị đặc biệt về kinh tế, khoa học và môi trường, số lượng còn ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ bị tuyệt chủng, thuộc danh mục các loài thực vật, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm do Chính phủ quy định.
2. Thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm được phân thành hai  nhóm (có danh mục kèm theo) như sau:
a) Nhóm I: nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại, gồm những loài thực vật rừng, động vật rừng có giá trị đặc biệt về khoa học, môi trường hoặc có giá trị cao về kinh tế, số luợng quần thể còn rất ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ  tuyệt chủng cao.
Thực vật rừng, động vật rừng Nhóm I được phân thành:
Nhóm I A, gồm các loài thực vật rừng.
Nhóm I B, gồm các loài động vật rừng.
b) Nhóm II: hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại, gồm những loài thực vật rừng, động vật rừng có giá trị về khoa học, môi trường hoặc có giá trị cao về kinh tế, số luợng quần thể còn ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ tuyệt chủng.
Thực vật rừng, động vật rừng Nhóm II được phân thành:
Nhóm II A, gồm các loài thực vật rừng.
Nhóm II B, gồm các loài động vật rừng.
Hai là, phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn về định mức:
- Đối với loài thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA:
§   Rừng sản xuất với khối lượng từ 20 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường; từ 12,5 mét khối (m3) trở lên;
§   Rừng phòng hộ với khối lượng từ 15 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường; từ 10 mét khối (m3) trở lên;
§   Khai thác trái phép rừng đặc dụng với khối lượng từ 15 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường; từ 5 mét khối (m3) trở lên; thực vật thuộc Nhóm IIA trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
§   Từ 10 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thuộc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp; từ 20 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường;
- Đối với loài thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA:
§   Thực vật thuộc loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ, các loại thực vật khác thuộc Nhóm IA trị giá từ 30.000.000 đồng đến dưới 60.000.000 đồng hoặc từ 01 mét khối (m3) trở lên gỗ tại rừng sản xuất hoặc từ 0,5 mét khối (m3) trở lên tại rừng phòng hộ hoặc từ 0,5 mét khối (m3) trở lên gỗ tại rừng đặc dụng hoặc khu bảo tồn thiên nhiên;
§   Gỗ loài nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA từ 1,5 mét khối (m3) trở hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thuộc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp hoặc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.
- Vật phạm pháp có khối lượng hoặc giá trị dưới mức thấp nhất quy định như trên.
·        Điều kiện khách quan:
Một là, phải đảm bảo đúng khái niệm về mặt hành vi thì mới khởi tố được. Các hành vi của tội này vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng như:
- Khai thác trái phép các loại gỗ rừng, các loài thực vật thuộc loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ và các tài nguyên sinh vật khác.
- Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái phép các loài thực vật hoang dã, động vật rừng.
- Hủy hoại trái phép tài nguyên rừng, hệ sinh thái rừng.
Hai là, hành vi này đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thuộc nghị định 157/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.

Ba là, hành vi phạm tội này chỉ khi gây ra hậu quả nghiêm trọng mới là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội. Theo đó, hậu quả gây ra là:
- Thiệt hại vật chất: được xác định dựa theo Mục III Thông tư liên tịch 19/2007/TTLT/BNN&PTNT-BTP-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 08/03/2007 hướng dẫn các tội phạm trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
- Thiệt hại phi vật chất: gây ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách pháp luật của Nhà nước về quản lý hoạt động khai thác tài nguyên rừng, lâm sản.

Bốn là, hành vi tác động là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả. Nếu chủ thể phạm tội thực hiện đúng hành vi mà không dẫn đến hậu quả như phân tích ở trên thì vẫn bị khởi tố hình sự.

Năm là, triệt tiêu yếu tố phương pháp, thủ đoạn phạm tội: nếu chủ thể phạm tội không theo tổ chức bất kỳ hoặc không sử dụng những thủ đoạn tinh vi, lừa dối.

Sáu là, triệt tiêu địa điểm phạm tội: nếu hành vi phạm tội không qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại.

Bảy là, triệt tiêu được thời điểm tội phạm hoàn thành: khi chủ thể phạm tội chưa hoàn thành việc khai thác rừng, lâm sản.

·        Điều kiện về mặt chủ quan:
Lỗi của hành vi này là lỗi cố ý, động cơ và mục đích là nhằm thu lợi bất hợp pháp. Tuy nhiên có thể tẩu tán trách nhiệm này bằng cách:
-  Hậu quả do hành vi này gây ra không ảnh hưởng nghiêm trọng đến cân bằng sinh thái hoặc đời sống con người, chế độ quản lý rừng, khai thác lâm sản của nhà nước, hoặc gây ra thiệt hại về vật chất không lớn.

-  Động cơ của hành vi phạm tội này không nhằm mục đích không thu lợi nhuận bất chính.


Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có

Thủ tục hòa giải bắt buộc trước khi khởi kiện

Tranh chấp đất đai vốn là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Đây cũng là  một trong những loại tranh chấp phổ biến nhất hiện nay. Khi phát sinh tranh chấp, hòa giải là phương án giải quyết ban đầu nhằm hạn chế tối đa những mâu thuẫn. Việc hòa giải có thể do các bên tự thương lượng hoặc thông qua một bên trung gian thứ ba trước khi khởi kiện nếu buộc phải giải quyết tại một cơ quan tài phán trong một số trường hợp nhất định. Trong bài viết này, ThS - Luật sư Phan Mạnh Thăng sẽ chia sẻ cụ thể về vấn đề trên. Hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm và đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm Hòa giải là một trong các phương pháp giải quyết trong tranh chấp đất đai. Theo đó bên thứ ba sẽ đóng vai trò là trung gian giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp để giải quyết tranh chấp. Bằng cách thương lượng, thuyết phục cùng với thiện chí của các bên thì tranh chấp sẽ được giải quyết một cách ôn hòa. Đặc điểm         Hiện nay về hò

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý?

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý dành cho các bậc phụ huynh khi có dấu hiệu học phí đầu năm ngày càng tăng. Về các khoản học phí được phép thu đã được pháp luật quy định cụ thể. Trường hợp nhà trường thu học phí sai quy định pháp luật sẽ bị xử lý về hành vi lạm thu học phí. Việc này thường xảy ra do các bậc cha mẹ không nắm rõ quy định. Sau đây, Thạc sĩ - Luật sư Phan Mạnh Thăng xin cung cấp nội dung về vấn đề trên. Hành vi lạm thu học phí đầu năm Các khoản thu nào nhà trường không được phép thu?           Theo Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT thì các khoản phụ phí đầu năm sẽ được thu qua Ban đại diện cha mẹ học sinh theo nguyên tắc tự nguyện. Tuy nhiên, trên thực tế các khoản phí này thường được Ban đại diện cha mẹ học sinh nhờ nhà trường thu hộ và được thu như phí bắt buộc.           Căn cứ khoản 4 Điều 10 Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT quy định những khoản Ban đại diện cha mẹ học sinh không được phép quyên góp là: Các khoản ủng hộ không theo nguyên tắc tự nguyện Bảo vệ