Chuyển đến nội dung chính

Từ Câu Chuyện Về Đồng Phục Người Luật Sư, Có Dấu Hiệu Lạm Quyền Chèn Ép Thầy Cãi?

Ngày làm việc thứ năm (4/12) trong phiên tòa xét xử Vũ “nhôm” mới đây, Hội đồng xét xử đã yêu cầu các Luật sư phải mặc đồng phục theo quy định tại Công văn 277/LĐLSVN, nếu Luật sư nào vi phạm sẽ xem xét, xử lý. Đồng phục đối với một người Luật sư là rất cần thiết bởi nó thể hiện sự riêng biệt, đặc trưng đối với những người khác. Tuy nhiên, sau sự kiện này, nhiều Luật sư cho rằng có dấu hiệu lạm quyền, chèn ép hành nghề Luật sư.
Có dấu hiệu chèn ép trong câu chuyện đồng phục của Luật sư
Luật sư phải mặc đồng phục khi tham gia phiên tòa

Đồng phục của người Luật sư được quy định như thế nào?

Theo Công văn số 277/LĐLSVN quy định kể từ ngày 10 tháng 10 năm 2011,  trang phục luật sư tham gia phiên tòa như sau:
Thứ nhất, Áo veston và quần âu màu đen, áo sơ mi màu trắng do Đoàn luật sư may tập trung hoặc các luật sư tự may theo quy định của Liên đoàn
Thứ hai, cà vạt màu xám lông chuột do Liên đoàn may thống nhất.
Thứ ba, huy hiệu có hình biểu tượng logo của Liên đoàn đeo trên ngực trái áo trang phục.
Trang phục thống nhất nêu trên áp dụng cho cả luật sư nam và luật sư nữ; mùa đông mặc đủ bộ trang phục, mùa hè có thể không mặc áo.
Như vậy, khi tham gia phiên tòa, luật sư phải mặc đồng phục được quy định như trên và Tòa án CHỈ CHẤP NHẬN các luật sư tham gia phiên tòa khi Luật sư có mang trang phục thống nhất theo quy định của Liên đoàn luật sư Việt Nam.
Vụ án vũ nhôm, Thẩm phán chấn chỉnh Luật sư
Quy định về đồng phục của Luật sư có trái pháp luật

Quy định về đồng phục của người Luật sư có trái pháp luật?

Công văn 277/LĐLSVN yêu cầu các Luật sư phải mặc trang phục đúng quy định theo tiêu chuẩn của Liên đoàn Luật sư đã đưa ra là việc cần thiết. Nhưng đối với quy định “chỉ chấp nhận các luật sư tham gia phiên tòa khi luật sư có mang đồng phục thống nhất theo quy định” là đi quá giới hạn trong khuôn khổ một quy định về trang phục của liên đoàn. Bởi quy định này có nghĩa là nếu Luật sư không mặc trang phục thống nhất của liên đoàn thì không được tham gia phiên tòa và đồng nghĩa với việc tước quyền bào chữa của Luật sư. Điều này là trái pháp luật, đi ngược lại những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng.
Cụ thể, theo các bộ luật, Bộ luật Tố tụng hiện hành không có quy định nào về việc tước quyền tham gia phiên tòa của Luật sư khi không mặc đúng đồng phục.
Thứ nhất, theo Khoản 4 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về trường hợp những người không được tham gia bào chữa tại phiên tòa, trong đó không có trường hợp nào quy định về việc không mặc đồng phục. Thậm chí theo Khoản 1 Điều 256 BLTTHS quy định về nội quy phiên tòa cũng chỉ quy định “Mọi người vào phòng xử án phải mặc trang phục nghiêm túc” chứ không nói về vấn đề không đồng phục thì không được tham gia phiên tòa.
Thứ hai, theo Điều 75 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Điều 61 Bộ luật Tố tụng hành chính 2015 cũng không quy định về vấn đề không mặc đồng phục thì không được tham gia phiên tòa.
Như vậy, việc quy định về vấn đề chỉ chấp nhận luật sư mặc đúng đồng phục là chưa hợp lý, không nằm trong bất kỳ quy định pháp luật nào. Việc chấp nhận hay không chấp nhận Luật sư tham gia phiên tòa phải căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng chứ không phải vào một công văn nội bộ.
Vấn đề ăn mặc không thể nào quyết định việc tước quyền tham gia phiên tòa của luật sư bởi có rất nhiều trường hợp bất đắc dĩ như Luật sư mang bầu, hay phiên tòa kéo dài nhiều ngày liên tiếp, hoặc bởi một lý do chính đáng khác.
Do đó, Liên đoàn LS Việt Nam cần sửa đổi lại một phần nội dung Công văn 277 theo hướng tòa án chỉ nên có quyền lưu ý, nhắc nhở, kiến nghị với đoàn Luật sư nếu Luật sư vi phạm cách ăn mặc tại tòa. Việc tước quyền tham gia của Luật sư tại phiên tòa phải thỏa mãn các điều kiện mà pháp luật quy định chứ không “khơi khơi” vì lý do áo quần của họ.
Trên đây là nhận định và kiến nghị của chúng tôi về vấn đề trang phục của người Luật sư khi tham gia phiên tòa. Để đảm bảo sự công bằng cho người Luật sư, chúng ta hãy cùng nhau nhìn nhận về vấn đề này một cách khách quan.


Tham khảo thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có

Thủ tục hòa giải bắt buộc trước khi khởi kiện

Tranh chấp đất đai vốn là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Đây cũng là  một trong những loại tranh chấp phổ biến nhất hiện nay. Khi phát sinh tranh chấp, hòa giải là phương án giải quyết ban đầu nhằm hạn chế tối đa những mâu thuẫn. Việc hòa giải có thể do các bên tự thương lượng hoặc thông qua một bên trung gian thứ ba trước khi khởi kiện nếu buộc phải giải quyết tại một cơ quan tài phán trong một số trường hợp nhất định. Trong bài viết này, ThS - Luật sư Phan Mạnh Thăng sẽ chia sẻ cụ thể về vấn đề trên. Hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm và đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm Hòa giải là một trong các phương pháp giải quyết trong tranh chấp đất đai. Theo đó bên thứ ba sẽ đóng vai trò là trung gian giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp để giải quyết tranh chấp. Bằng cách thương lượng, thuyết phục cùng với thiện chí của các bên thì tranh chấp sẽ được giải quyết một cách ôn hòa. Đặc điểm         Hiện nay về hò

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý?

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý dành cho các bậc phụ huynh khi có dấu hiệu học phí đầu năm ngày càng tăng. Về các khoản học phí được phép thu đã được pháp luật quy định cụ thể. Trường hợp nhà trường thu học phí sai quy định pháp luật sẽ bị xử lý về hành vi lạm thu học phí. Việc này thường xảy ra do các bậc cha mẹ không nắm rõ quy định. Sau đây, Thạc sĩ - Luật sư Phan Mạnh Thăng xin cung cấp nội dung về vấn đề trên. Hành vi lạm thu học phí đầu năm Các khoản thu nào nhà trường không được phép thu?           Theo Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT thì các khoản phụ phí đầu năm sẽ được thu qua Ban đại diện cha mẹ học sinh theo nguyên tắc tự nguyện. Tuy nhiên, trên thực tế các khoản phí này thường được Ban đại diện cha mẹ học sinh nhờ nhà trường thu hộ và được thu như phí bắt buộc.           Căn cứ khoản 4 Điều 10 Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT quy định những khoản Ban đại diện cha mẹ học sinh không được phép quyên góp là: Các khoản ủng hộ không theo nguyên tắc tự nguyện Bảo vệ