Chuyển đến nội dung chính

HIỂU THẾ NÀO VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ?


1. Khái niệm
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hình thức văn bản tố tụng, xác định sự việc xảy ra trong thực tế có dấu hiệu của tội phạm. Quyết định này có ý nghĩa rất quan trọng, làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa cơ quan có thẩm quyền và người tham gia tố tụng.
Khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án sẽ là cơ sở pháp lí đầu tiên để thực hiện việc điều tra. Các hoạt động điều tra và áp dụng các biện pháp ngăn chặn chỉ được tiến hành sau khi có quyết định khởi tố vụ án, trừ một số trường hợp đặc biệt.
Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Nếu xác định có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án, nếu xác định không có dấu hiệu tội phạm, thì ra quyết định không khởi tố vụ án.

2. Ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
-      Là cơ sở pháp lý cho việc điều tra, làm sáng tỏ vụ án, là giai đoạn tố tụng mở đầu các hoạt động điều tra.  Đây là giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng, phải có quyết định khởi tố vụ án trước, rồi mới được tiến hành các hoạt động điều tra, trừ một số trường hợp đặc biệt.
-      Phát hiện chính xác, nhanh chóng, kịp thời mọi hành vi phạm tội. Chỉ có thông qua những hoạt động kiểm tra, xác minh kịp thời các nguồn tin về tội phạm mới có điều kiện làm rõ một sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không.
3. Cơ sở ban đầu để tiến hành thủ tục khởi tố vụ án hình sự
Cơ sở khởi tố vụ án hình sự là những nguồn thông tin về tội phạm do pháp luật quy định nhằm giúp các cơ quan có thẩm quyền xác định được căn cứ để khởi tố vụ án hình sự.
Theo điều 143 BLTTHS 2015, Cơ sở khởi tố vụ án hình sự được quy định như sau:
Thứ nhất, tố giác về tội phạm của công dân
Tố giác về tội phạm là việc công dân tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của một người nào đó mà họ cho rằng là tội phạm. Công dân có quyền và nghĩa vụ tố giác hành vi vi phạm pháp luật hình sự đối với cơ quan, tổ chức. Luật không giới hạn công dân chỉ được tố giác đến cơ quan điều tra, viện kiểm sát hay tòa án và do đó Công dân có thể tố giác tội phạm đến bất cứ cơ quan, tổ chức nào nếu thuận tiện cho họ. Tố giác của công dân có thể trực tiếp bằng miệng, bằng văn, qua điện thoại hoặc hòm thư điện tử... Người bị hại làm đơn trình báo về sự việc phạm tội gây thiệt hại cho họ cũng là một hình thức của tố giác tội phạm của công dân.
Khi công dân trực tiếp tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận tố giác đó có trách nhiệm giải thích cho người tố giác về trách nhiệm pháp lý của họ đối với nội dung tố giác và lập biên bản ghi rõ ngày, tháng,  năm tiếp nhận, nội dung tố giác và yêu cầu người tố giác ký xác nhận.Trong trường hợp công dân tố giác tội phạm qua điện  thoại thì  cơ quan tiếp nhận phải ghi lại họ, tên, địa chỉ và số điện thoại của người tố giác, nội dung tố giác để trên cơ sở đó liên hệ với người tố giác để kiểm tra xác minh nguồn tin tố giác.
Thứ hai, tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức, cá nhân
Tin báo của cơ quan, tổ chức là những thông tin về tội phạm do cơ quan, tổ chức phát hiện hoặc do cơ quan, tổ chức nhận được tố giác của công dân và sau đó báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản. Việc khởi tố vụ án hình sự dựa trên cơ sở tin báo của cơ quan, tổ chức chỉđược thực hiện sau khi cơ quan điều tra, cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã kiểm ra, xác minh và đã xác định có dấu hiệu tội phạm theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, tin báo tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng
Nhằm phát huy vai trò to lớn của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, Bộ luật tố tụng hình sự quy định tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng là cơ sở để để xác định dấu hiệu tội phạm vì vậy khi có tin báo về tội phạm trên các phương tiện  thông tin đại chúng các cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tiến hành xem xét, xác minh tin báo đó, nếu có dấu hiệu của tội phạm thì khởi tố vụ án hình sự để điều tra phát hiện người phạm tội. Trong một số trường hợp cơ quan thông tin đại chúng đề nghị cơ quan có thẩm quyền có ý kiến trả lời bạn đọc thì cơ quan có thẩm quyền được yêu cầu phải có văn bản trả lời cơ quan thông tin đại chúng đã đưa tin.
Thứ tư, Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước.
Kiến nghị khởi tố là quyền của cơ quan Nhà nước, thể hiện bằng văn bản kiến nghị gởi đến CQĐT và VKS, yêu cầu khởi tố hình sự để điều tra, xử lý tội phạm và người phạm tội nào đó. Kiến nghị khởi tố là một dạng đặc biệt của tin báo về tội phạm. Đây là một bổ sung về cơ sở khởi tố vụ án hình sự của BLTTHS 2015 so với BLTTHS 2003.
Thứ năm, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
Những thông tin về tội phạm được phát hiện thông qua các hoạt động của cơ quan có thẩm quyền như khám nghiệm hiện trường-tử thi; thông qua cơ sở của CQĐT như mạng lưới bí mật... Về bản chất, đây chính là nguồn thông tin về tội phạm do chính các cơ quan này trực tiếp phát hiện tội phạm. Và trên cơ sở đó để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Thứ sáu, người phạm tội tự thú
"Tự thú" là việc người đã thực hiện hành vi phạm tội tự nhận và khai rõ về hành vi phạm tội của mình trước cơ quan, tổ chức. Sự tự thú của người phạm tội là một nguồn thông tin về tội phạm và cũng là cơ sở để khởi tố vụ án. Sự tự thú này về bản chất chính là sự báo tin của một người về vụ tội phạm do chính người đó gây ra. Pháp luật quy định tự thú là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Quy định này thể hiện tính nhân văn và thực hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với những người đã lầm lỗi nhưng biết nhận ra, ăn năn hối cải và quyết tâm sửa chữa để trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội. Đồng thời với quy định này cũng mang ý nghĩa phòng ngừa tích cực, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan điều tra nhanh chóng phát hiện tội phạm và ngăn chặn kịp thời những hành vi có thể sẽ tiếp tục thực hiện tội phạm, mặt khác nó còn tác động đến tư tưởng của những đối tượng khác đã hoặc đang có hành vi phạm tội cũng phải tự kiềm chế hành vi và ý đồ thực hiện tội phạm của mình. Người phạm tội có thể tự thú trước cơ quan công an, viện kiểm sát, tòa án hoặc cơ quan, tổ chức khác. Các cơ quan, tổ chức tiếp nhận tự thú phải lập biên bản ghi rõ họ, tên, tuổi nghề nghiệp, chỗ ở và những lời khai của người tự thú, trong đó ghi cụ thể về hành vi phạm tội, những người có thể biết được việc phạm tội, công cụ, phương tiện phạm tội (nếu có) và những tình tiết khác cho phép khẳng định lời khai của người tự thú là đúng. Cán bộ tiếp nhận cùng người tự thú ký tên vào biên bản. trong trường hợp cơ quan, tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự thú không phải là cơ quan điều tra, viện kiểm sát thì cơ quan, tổ chức này có trách nhiệm báo ngay cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát.


 Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có