Chuyển đến nội dung chính

CÁC VẤN ĐỀ CẦN CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ


Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự là một vấn đề phức tạp, vừa mang tính lý luận, tính thực tiễn, đồng thời có tính quyết định trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự. Việc nhận thức đúng và đầy đủ lý luận về chứng cứ nói chung trong đó có quá trình chứng minh trong vụ án hình sự, sẽ bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử được khánh quan chính xác, không để lọt tội phạm, không làm oan, sai đối với người vô tội. Hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự là hoạt động có mục đích làm sáng tỏ nội dung vụ án và những tình tiết có liên quan đến vụ án.
1. Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bao gồm những sự kiện và tình tiết khác nhau; mỗi sự kiện, tình tiết nói riêng cũng như toàn bộ vụ án đều phải được nghiên cứu, làm sáng tỏ một cách khách quan, đầy đủ, toàn diện và chính xác. Để chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự thì vấn đề quan tâm hàng đầu chính là các cấu thành tội phạm. Những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm cũng là những vấn đề phải chứng minh trong bất kỳ vụ án hình sự:

-      Dấu hiệu hành vi thuộc yếu tố mặt khách quan của tội phạm.
-      Dấu hiệu lỗi thuộc yếu tố mặt chủ quan của tội phạm.
-      Dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi thuộc yếu tố chủ thể của tội phạm.
Ngoài cấu thành tội phạm, trên cơ sở, căn cứ để quyết định hình phạt được quy định trong pháp luật hình sự, những vấn đề phải phải chứng minh trong vụ án hình sự còn có: Những tình tiết về tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm; những tình tiết về nhân thân người phạm tội và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự.
2. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự
Theo quy định tại Điều 85 BLTTHS năm 2015 – Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự - khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh:
-      Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
Trong từng vụ án hình sự cần phải chứng minh một cách khẳng định rằng hành vi bị truy tố đã xảy ra trong thực tế. Việc chứng minh đó thể hiện ở việc làm sáng tỏ một cách đầy đủ và toàn diện tất cả các tình tiết liện quan đến hành vi phạm tội, có ý nghĩa đối với việc định tội danh đúng hành vi và suy cho cùng có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Đó là những dấu hiệu thuộc chủ thể và mặt khách quan của tội phạm.
-      Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
Chứng minh ai là người thực hiện hành vi phạm tội, tức là xác định chủ thể của tội phạm. Tiếp đến các định người đó có lỗi không. Nếu có lỗi thì lỗi cố ý hay vô ý. Mục đích và động cơ phạm tội cần được chứng minh. Khái quát lại những dấu hiệu cơ bản thuộc chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm phải được làm sáng tỏ.
-      Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
Đây là các tình tiết được quy định tại điều 51và 52 Bộ luật hình sự 2015 và các đặc điểm đặc trưng cho nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt đối với bị cáo.
-      Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra là một trong những vấn đề cần phải được chứng minh trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, và xác định mức độ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và có ý nghĩa đối với việc định tội danh, có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định mức độ bồi thường thiệt hại.
-      Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
Việc xác định được nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm thì sẽ giúp đưa ra các giải pháp phòng ngừa tội phạm.
-      Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
2. Trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự
a. Trách nhiệm chứng minh tội phạm của cơ quan có thẩm quyền
Theo quy định tại Điều 15 BLTTHS năm 2015 – Xác định sự thật của vụ án thì: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội”.
Theo quy định trên thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan điều tra, truy tố và xét xử, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nghĩa vụ chứng minh tội phạm, nhưng việc chứng minh tội phạm của các cơ quan này ở mỗi giai đoạn tố tụng có những đặc điểm khác nhau. Ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có nghĩa vụ chứng minh tội phạm, còn ở giai đoạn xét xử, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và Hội đồng xét xử. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, do vậy, kể cả trong trường hợp người phạm tội không đưa ra được những chứng cứ để chứng minh là họ vô tội thì cũng không thể vì thế mà các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng kết tội họ. Ngoài ra, một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định tại Điều 35 BLTTHS năm 2015.
Trong thực tế việc điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, khi xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã được thực hiện, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chứng minh:
-      Có hành vi (hành động hay không hành động) nguy hiểm cho xã hội xảy ra hay không?
-      Tội phạm được thực hiện dưới hình thức gì (một người, nhiều người thực hiện nhưng không có đồng phạm, đồng phạm hay phạm tội có tổ chức)?
-      Hình thức lỗi, mức độ lỗi, mục đích, động cơ phạm tội…?
-      Giai đoạn thực hiện tội phạm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hay tội phạm hoàn thành?
-      Thủ đoạn thực hiện tội phạm, hoàn cảnh, địa điểm, thời gian thực hiện tội phạm?
-      Tính chất, mức độ hậu quả nguy hiểm cho xã hội do tội phạm gây ra?
Ngoài ra, khi xem xét nhân thân người phạm tội, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án phải chứng minh:
-      Những đặc điểm nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng trực tiếp đến tội phạm (những đặc điểm mang tính chất pháp lý) như phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tái phạm thường hay tái phạm nguy hiểm, có tính chất chuyên nghiệp hay không; là người thành niên hay chưa thành niên; có thái độ tự thú hoặc hối cải, lập công chuộc tội hay là ngoan cố không chịu cải tạo…?
-      Những đặc điểm nhân thân khác tuy không mang tính chất pháp lý, nhưng có ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội như thành phần, quá trình hoạt động chính trị - xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp; người phạm tội thuộc dân tộc ít người, thuộc gia đình liệt sĩ; là nhân sĩ, trí thức có tên tuổi; là chức sắc tôn giáo…?
-      Những đặc điểm phản ánh hoàn cảnh thực tế của người phạm tội như là người già yếu, bị bệnh hiểm nghèo; là phụ nữ có thai; có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của bản thân hay của gia đình…?
* Ý nghĩa:
Việc quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng xét về bản chất tương tự với quy định các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, chính xác, làm sáng tỏ các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
b. Trách nhiệm chứng minh của người bị buộc tội và người bào chữa:
Quy định “… Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.  Đây cũng là nguyên tắc suy đoán vô tội quy định tại điều 13 BLTTHS 2015. Người bị buộc tội quyền chứng minh mình vô tội, nhưng đó không phải là nghĩa vụ của họ. Vì vậy việc người bị buộc tội không đưa ra được những chứng cứ chứng minh mình vô tội, thì không thể coi đó chứng cứ buộc tội lại họ.
Theo điểm a khoản 2 điều 73 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định người bào chữa có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của bị can, bị cáo, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, đảm bảo công lý: Người bào chữa có nghĩa vụ:
“Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo;”

 Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có

Thủ tục hòa giải bắt buộc trước khi khởi kiện

Tranh chấp đất đai vốn là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Đây cũng là  một trong những loại tranh chấp phổ biến nhất hiện nay. Khi phát sinh tranh chấp, hòa giải là phương án giải quyết ban đầu nhằm hạn chế tối đa những mâu thuẫn. Việc hòa giải có thể do các bên tự thương lượng hoặc thông qua một bên trung gian thứ ba trước khi khởi kiện nếu buộc phải giải quyết tại một cơ quan tài phán trong một số trường hợp nhất định. Trong bài viết này, ThS - Luật sư Phan Mạnh Thăng sẽ chia sẻ cụ thể về vấn đề trên. Hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm và đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai Khái niệm Hòa giải là một trong các phương pháp giải quyết trong tranh chấp đất đai. Theo đó bên thứ ba sẽ đóng vai trò là trung gian giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp để giải quyết tranh chấp. Bằng cách thương lượng, thuyết phục cùng với thiện chí của các bên thì tranh chấp sẽ được giải quyết một cách ôn hòa. Đặc điểm         Hiện nay về hò

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý?

Lạm thu học phí đầu năm, cơ sở pháp lý nào để xử lý dành cho các bậc phụ huynh khi có dấu hiệu học phí đầu năm ngày càng tăng. Về các khoản học phí được phép thu đã được pháp luật quy định cụ thể. Trường hợp nhà trường thu học phí sai quy định pháp luật sẽ bị xử lý về hành vi lạm thu học phí. Việc này thường xảy ra do các bậc cha mẹ không nắm rõ quy định. Sau đây, Thạc sĩ - Luật sư Phan Mạnh Thăng xin cung cấp nội dung về vấn đề trên. Hành vi lạm thu học phí đầu năm Các khoản thu nào nhà trường không được phép thu?           Theo Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT thì các khoản phụ phí đầu năm sẽ được thu qua Ban đại diện cha mẹ học sinh theo nguyên tắc tự nguyện. Tuy nhiên, trên thực tế các khoản phí này thường được Ban đại diện cha mẹ học sinh nhờ nhà trường thu hộ và được thu như phí bắt buộc.           Căn cứ khoản 4 Điều 10 Thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT quy định những khoản Ban đại diện cha mẹ học sinh không được phép quyên góp là: Các khoản ủng hộ không theo nguyên tắc tự nguyện Bảo vệ