Chuyển đến nội dung chính

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CHUNG VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

1. Khái niệm và phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo
            Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại 2011, "Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình".

            Khoản 1 Điều 2 Luật Tố cáo 2011 quy định, "Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức".
            Từ những quy định trên, phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo dựa trên các tiêu chí sau:
            Thứ nhất, về chủ thể thực hiện quyền;
            Đối với khiếu nại, chủ thể có quyền khiếu nại bao gồm công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức. Trong khi đó, tố cáo chỉ là quyền của công dân. Chủ thể khiếu nại rộng hơn nhiều so với tố cáo;
            Thứ hai, đối tượng khiếu nại, tố cáo;
            Đối tượng khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức. Khái niệm các đối tượng của khiếu quy định tại Khoản 8, 9 và 10 Luật Khiếu nại 2011 như sau:
            - Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.
            - Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
            - Quyết định kỷ luật là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
            Đối tượng tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

2. Áp dụng pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
a. Áp dụng pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
            Theo Điều 3 Luật Khiếu nại 2011, tùy vào đối tượng có quyền khiếu nại mà việc áp dụng pháp luật cũng có sự khác biệt. Cụ thể:
            Thứ nhất, đối với khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam thì việc giải quyết khiếu nại thực hiện theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trước (nếu có) và quy định của Luật Khiếu nại;
            Thứ hai, đối với khiếu nại trong đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước thì áp dụng quy định của Luật Khiếu nại. Điều này được hướng dẫn tại Chương 2 Nghị định 75/2012/NĐ-CP;
            Thứ ba, đối với khiếu nại trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, căn cứ theo quy định của Luật Khiếu nại, các cơ quan, tổ chức trên hướng dẫn việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong cơ quan, tổ chức của mình;
            Thứ tư, khiếu nại trong Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, các cơ quan khác của Nhà nước. Căn cứ vào Luật Khiểu nại, các cơ quan nhà nước trên quy định việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong cơ quan mình.
            Thứ năm, trường hợp luật khác có quy định khác về khiếu nại, giải quyết khiếu nại thì áp dụng quy định của luật đó.
b. Áp dụng pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo
            Điều 3 Luật Tố cáo 2011 quy định:
            Thứ nhất, đối với việc tố cáo của cá nhân nước ngoài cư trú tại Việt Nam và giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam được áp dụng theo quy định của Luật Tố cáo, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác;
            Thứ hai, việc tố giác và tin báo về tội phạm được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
            Thứ ba, trường hợp luật khác có quy định khác về tố cáo và giải quyết tố cáo thì áp dụng quy định của luật đó.
            Ngoài ra, theo Điều 4 Thông tư 06/2013/TT-TTCP, việc giải quyết tố cáo thông qua hoạt động thanh tra được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra và các quy định khác có liên quan; việc thông báo thụ lý tố cáo, thông báo kết quả giải quyết tố cáo thực hiện theo quy định tại Thông tư này.
3. Nguyên tắc giải quyết khiếu nại, tố cáo
a. Nguyên tắc giải quyết khiếu nại
            Căn cứ Điều 4 Luật Khiếu nại 2011, hướng dẫn tại Điều 3 Thông tư 07/2013/TT-TTCP, việc giải quyết khiếu nại phải bảo đảm chính xác, khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời và đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn theo quy định của pháp luật; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân.
b. Nguyên tắc giải quyết tố cáo
            Căn cứ Điều 4 Luật Tố cáo 2011, việc giải quyết tố cáo phải kịp thời, chính xác, khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định pháp luật; bảo đảm an toàn cho người tố cáo; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo. Ngoài ra, tại Khoản 2 Điều 3 Thông tư 06/2013/TT-TTCP quy định, trong phạm vi trách nhiệm của mình, người giải quyết tố cáo, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được giao xác minh nội dung tố cáo phải áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc báo ngay cho cơ quan công an, cơ quan có thẩm quyền để áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo, ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm pháp luật.
4. Các hành vi bị nghiêm cấm trong khiếu nại, tố cáo
a. Các hành vi bị nghiêm cấm trong khiếu nại
            Các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Điều 6 Luật Khiếu nại 2011 bao gồm:
i.          Cản trở, gây phiền hà cho người thực hiện quyền khiếu nại; đe doạ, trả thù, trù dập người khiếu nại;
ii.          Thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại; không giải quyết khiếu nại; làm sai lệch các thông tin, tài liệu, hồ sơ vụ việc khiếu nại; cố ý giải quyết khiếu nại trái pháp luật;
iii.         Ra quyết định giải quyết khiếu nại không bằng hình thức quyết định;
iv.        Bao che cho người bị khiếu nại; can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết khiếu nại;
v.         Cố tình khiếu nại sai sự thật;
vi.        Kích động, xúi giục, cưỡng ép, dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo người khác tập trung đông người khiếu nại, gây rối an ninh trật tự công cộng;
vii.        Lợi dụng việc khiếu nại để tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích của Nhà nước; xuyên tạc, vu khống, đe dọa, xúc phạm uy tín, danh dự của cơ quan, tổ chức, người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, người thi hành nhiệm vụ, công vụ khác;
viii.       Vi phạm quy chế tiếp công dân;
ix.        Vi phạm các quy định khác của pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
b. Các hành vi bị nghiêm cấm trong tố cáo
            Các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Điều 8 Luật Tố cáo 2011 bao gồm:
i.          Gây khó khăn, phiền hà đối với việc thực hiện quyền tố cáo của công dân.
ii.          Thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết tố cáo.
iii.         Tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và những thông tin khác có thể làm lộ danh tính của người tố cáo.
iv.        Làm sai lệch hồ sơ vụ việc trong quá trình giải quyết tố cáo.
v.         Không giải quyết hoặc cố ý giải quyết tố cáo trái pháp luật; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong việc giải quyết tố cáo để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây phiền hà cho người bị tố cáo.
vi.        Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm bảo vệ người tố cáo.
vii.        Cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết tố cáo.
viii.       Cản trở việc thực hiện quyền tố cáo; đe doạ, trả thù, trù dập, xúc phạm người tố cáo.
ix.        Bao che người bị tố cáo.
x.         Cố ý tố cáo sai sự thật; kích động, cưỡng ép, dụ dỗ, mua chuộc người khác tố cáo sai sự thật; mạo danh người khác để tố cáo.
xi.        Mua chuộc, hối lộ người giải quyết tố cáo; đe doạ, trả thù, xúc phạm người giải quyết tố cáo.
xii.        Lợi dụng việc tố cáo để tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích của Nhà nước; xuyên tạc, vu khống, gây rối an ninh, trật tự công cộng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.
xiii.       Đưa tin sai sự thật về việc tố cáo và giải quyết tố cáo.
xiv.      Vi phạm các quy định khác của pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo.


 Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có