Chuyển đến nội dung chính

PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH BẢN ÁN/QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN (PHẦN 1)

1.      Căn cứ để thi hành án
1.1.  Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
Bản án, quyết định đã có hiệu lực phải được đảm bảo thi hành gồm:
-            Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, tức 30 ngày, trừ những trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 482 thì phải thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo kháng nghị như bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân; quyết định về tính hợp pháp của cuộc đình công; quyết định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
-            Bản án phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm sau khi được tuyên án hoặc ra quyết định sẽ có hiệu lực pháp luật ngay.
-            Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.


1.2.  Quyền yêu cầu thi hành án dân sự
Khi có bản án, quyết định mà Tòa án, cơ quan có thẩm quyền tuyên không mặc nhiên được đưa ra thi hành ngay. Trong số những nội dung của bản án, quyết định thuộc diện trên, Luật Thi hành án dân sự phân biệt những loại việc thuộc trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự phải chủ động ra quyết định thi hành án để tổ chức thi hành và những loại việc cơ quan thi hành án dân sự chỉ được đưa ra thi hành khi có đơn yêu cầu thi hành án của đương sự. Tuy nhiên không phải bất cứ đương sự nào cũng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án để thi hành bản án, quyết định đó. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự thì:
-            Trường hợp đương sự là pháp nhân hoặc là người chưa thành niên, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án theo yêu cầu của người đại diện theo pháp luật của đương sự.
-            Trường hợp đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự hoặc là người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án theo yêu cầu của người giám hộ.
-            Trường hợp đương sự có ủy quyền cho người khác yêu cầu thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án theo yêu cầu của người được ủy quyền.
Như vậy, trong một bản án, quyết định, nếu có những nội dung mà cơ quan thi hành án căn cứ tự mình đưa ra thi hành quy định tại Điều 36 Luật thi hành án dân sự 2014, còn những nội dung còn lại mà liên quan đến đương sự (như bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khoẻ, tiền cấp dưỡng, buộc người sử dụng lao động nhận người lao động trở lại làm việc, buộc thực hiện hành vi nhất định…) thì đương sự phải làm đơn mới được đưa ra thi hành.
2.      Cơ quan có thẩm quyền thi hành án
Quyền yêu cầu thi hành án là quyền của đương sự (không chỉ người được thi hành án mà cả người phải thi hành án) yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành bản án, quyết định được đưa ra thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Theo quy định tại Điều 36 Luật Thi hành án dân sự 2014 thì những loại việc do cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án để tổ chức thi hành là các loại việc sau đây:
-            Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án;
-            Trả lại tiền, tài sản cho đương sự;
-            Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước;
-            Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước;
-            Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
-            Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản. 
Thẩm quyền thi hành án theo Điều 35 Luật thi hành án 2008 sửa đổi 2014 bao gồm:
-            Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện (Chi cục Thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh);
-            Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh (Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương);
-            Cơ quan thi hành án dân sự cấp quân khu.
3.      Thời hiệu yêu cầu thi hành án
Thời hiệu yêu cầu thi hành án là thời hạn do pháp luật quy định mà trong khoảng thời gian đó người được thi hành án, người phải tíến hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành bản án, quyết định của Toà án. Hết thời hạn đó, nếu nguời yêu cầu thi hành án không chng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn, thì người được thi hành án không còn quyền yêu cầu thi hành phần bản án, quyết định chưa yêu cầu thi hành án nữa, còn người phải thi hành án không còn nghĩa vụ phải thi hành phần bản án, quyết định đó cho người được thi hành án nữa. Bản án, quyết định hết hiệu lực thi hành (đối với phần thi hành theo đơn yêu cầu).
Theo đó, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án trong thời hạn 05 năm được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án 2008 sửa đổi 2014. Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Tuy nhiên, thời hiệu yêu cầu thi hành án chỉ áp dụng đối với trường hợp có đơn yêu cầu. Đối với các  trường hợp cơ quan Thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án theo quy định tại Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi 2014 thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thời hạn thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành quyết định thi hành án đó.

(Còn nữa...)

 Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có