Chuyển đến nội dung chính

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ PHIÊN TÒA DÂN SỰ PHÚC THẨM

Khi nhận được đơn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền phải thực hiện những công việc trước khi gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị cho tòa án cấp phúc thẩm. Cụ thể như sau:

-            Kiểm tra đơn kháng cáo (Điều 275 BLTTDS 2015): khi nhận hồ sơ phúc thẩm, thẩm phán cần kiểm ra hồ sơ về hình thức (quyết định kháng nghị, đơn kháng cáo có hợp lệ không, còn thời hạn được kháng cáo, kháng nghị không) lẫn nội dung (nội dung kháng cáo, quyết định kháng nghị và nội dung của vụ án). Trong quá trình xem xét đơn, Tòa án cấp sơ thẩm có thể yêu cầu người kháng cáo làm lại, bổ sung hoặc sửa đổi đơn kháng cáo (chưa đầy đủ các nội dung theo quy định); hoặc trả lại đơn kháng cáo (nếu người kháng cáo không chịu sửa chữa, bổ sung hoặc trường hợp người kháng cáo không thuộc đối tượng có quyền được kháng cáo); hoặc áp dụng những quy định về kháng cáo quá hạn để giải quyết những trường hợp quá thời hạn kháng cáo.


-            Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm (Điều 276 BLTTDS 2015): khi đơn kháng cáo đáp ứng đầy đủ các yêu cầu thì tòa án cấp sơ thẩm thông báo người kháng cáo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp. VKS kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm không phải nộp tạm ứng án phí. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, người kháng cáo có nghĩa vụ nộp tiền và biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án sơ thẩm. Quá thời hạn trên, Tòa án trả lại đơn kháng cáo, trừ trường hợp có lý do chính đáng bằng văn bản.
-            Thông báo việc kháng cáo, kháng nghị (Điều 277 BLTTDS 2015): sau khi chấp nhận đơn kháng cáo, tòa án cấp sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp và các đương sự có liên quan biết về việc kháng cáo; và không phải thông báo cho chính người đã kháng cáo. Người nhận được thông báo của tòa án có quyền gửi ý kiến của mình cho Tòa án cấp phúc thẩm và văn bản này sẽ được đưa vào hồ sơ vụ án. Riêng đối với việc kháng nghị thì VKS phải gửi ngay cho đương sự có liên quan quyết định kháng nghị của mình, đương sự khi nhận được có quyền nêu văn bản ý kiến của mình và văn bản này sẽ được đưa vào hồ sơ vụ án.
-            Gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị cho tòa án cấp phúc thẩm (Điều 283 BLTTDS 2015): trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị hoặc hết thời hạn kháng cáo, người kháng cáo đã nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu chứng cứ bổ sung kèm theo.
Kể từ khi nhận được hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị do Tòa án cấp sơ thẩm chuyển lên, thì Tòa án cấp phúc thẩm thực hiện việc:
-            Thụ lý vụ án dân sự (Điều 185 BLTTDS 2015)
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo thì Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý vụ án và trong 03 ngày làm việc thì phải thông báo bằng văn bản cho các đương sự, VKS cùng cấp biết về việc đã thụ lý vụ án. Chánh án tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng xét xử và phân công một Thẩm phán làm Chủ tọa phiên tòa. Theo điều 64 BLTTDS 2015 thì Hội đồng xét xử gồm có 03 Thẩm phán, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn; và không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân.
-            Chuẩn bị xét xử phúc thẩm
Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án (Điều 286 BLTTDS 2015) và có thể được gia hạn thêm nhưng không quá 01 tháng (nếu vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan). Thời hạn nêu trên không áp dụng đối với vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc có yếu tố nước ngoài. Trong thời hạn này, Tòa cấp phúc thẩm ra một trong ba quyết định sau:
-            Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án (Điều 288 BLTTDS 2015): nếu trong quá trình giải quyết vụ án thấy có những căn cứ cần phải tạm đình chỉ thì Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm. Hậu quả của việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án và tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án được thực hiện tương tự như tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cấp sơ thẩm. Quyết định này có hiệu lực thi hành ngay và được gửi cho đương sự, cơ quan tổ chức, cá nhân khởi kiện, VKS cùng cấp.
-            Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án (Điều 289 BLTTDS 2015): quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ xét xử phúc thẩm chỉ dẫn đến việc ngừng xét xử phúc thẩm mà không ảnh hưởng đến những hoạt động tố tụng trước đó, bản án, quyết định sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
-            Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm: nếu không thuộc vào các trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết thì Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm và quyết định này phải được gửi cho đương sự, VKS cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định; đồng thời chuyển hồ sơ vụ án cho VKS nghiên cứu trong 15 ngày, hết thời hạn đó, VKS phải trả lại hồ sơ vụ án. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì trong thời hạn 01 tháng, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm và được gia hạn thêm 01 tháng nếu có lý do chính đáng về việc không mở được phiên tòa.
-       Xét xử phúc thẩm
Những người tham gia phiên tòa phúc thẩm: bao gồm người kháng cáo, đương sự, cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Ngoài ra những người tham gia tố tụng khác chỉ được Tòa án triệu tập khi xét thấy cần thiết. Đặc biệt, trong tất cả các phiên tòa phúc thẩm bắt buộc phải có mặt của Kiểm sát viên đại diện VKS để thực hiện quyền kiểm sát của mình. Nếu kiểm sát viên vắng mặt thì
Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa, trừ trường hợp VKS có kháng nghị phúc thẩm.
Thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự: từ Điều 297 đến Điều 315 BLTTDS 2015 thì về cơ bản, thủ tục của một phiên tòa phúc thẩm tương tự như thủ tục của một phiên tòa sơ thẩm:
Theo các điều từ Điều 308 đến Điều 312 BLTTDS 2015 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền:
-            Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
-            Sửa bản án sơ thẩm.
-            Hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
-            Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
-            Đình chỉ xét xử phúc thẩm.
-            Tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

Cuối cùng, Hội đồng xét xử ra bản án, quyết định phúc thẩm cuối cùng và được gửi cho đương sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, cơ quan có thẩm quyền để tổ chức thi hành trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định. Ngoài ra còn phải niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án và công bố công khai trên một trong các báo hàng ngày của Trung ương hoặc địa phương trong 03 số liên tiếp nếu bản án, quyết định có liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng do tổ chức xã hội tham gia bảo vệ người tiêu dùng khởi kiện.

 Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có