Chuyển đến nội dung chính

CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP HÌNH SỰ ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN (PHẦN 2)

2. Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi (Điều 48):
1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.
2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.
Để triệt tiêu các biện pháp tư pháp hình sự này, pháp nhân thương mại cần phải có các điều kiện sau:
-  Trong trường hợp do “vô ý” gây ra thiệt hại về tài sản như dùng tài sản trong trường hợp phòng vệ chính đáng, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong tình thế cấp thiết.
-  Tài sản bị thiệt hại là do nhiều thành phần khác nhau tác động vào nằm ngoài dự đoán của chủ thể đó, không thể khắc phục kịp thời và không mong muốn thiệt hại xảy ra.
-  Tài sản đó đã bị thiệt hại trước đó nhưng chưa bị phát hiện, khi chủ thể chiếm đoạt mới phát sinh thiệt hại.
-  Chủ sở hữu và chủ thể phạm tội có yếu tố “cấu kết” nhau.
-  Chủ sở hữu “cho” tài sản hoặc để lại thông qua thừa kế, ủy quyền, chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể phạm tội.
-  Chủ sở hữu biết việc chiếm đoạt tài sản của chủ thể phạm tội nhưng vẫn mặc cho chủ thể phạm tội thực hiện hành vi gây thiệt hại.
-  Tại thời điểm phạm tội chưa gây ra được thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần và thiệt hại phát sinh sau một khoảng thời gian dài và do nhiều yếu tố tác động khác gây ra.
-  Thiệt hại gây ra không lớn và có thể khắc phục, sửa chữa được.

3. Khôi phục lại tình trạng ban đầu: chủ thể phạm tội buộc phải khôi phục lại tình trang ban đầu của vật thể được sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội.
Để triệt tiêu các biện pháp tư pháp hình sự này, pháp nhân thương mại cần phải có các điều kiện sau:
- Vật không thể khôi phục lại tình trạng ban đầu.
- Thiệt hại gây ra là do lỗi “vô ý”.
-  Tài sản đó đã bị thiệt hại trước đó nhưng chưa bị phát hiện, khi chủ thể chiếm đoạt mới phát sinh thiệt hại.
-  Chủ sở hữu và chủ thể phạm tội có yếu tố “cấu kết” nhau.
-  Tài sản bị thiệt hại là do nhiều thành phần khác nhau tác động vào nằm ngoài dự đoán của chủ thể đó, không thể khắc phục kịp thời và không mong muốn thiệt hại xảy ra.
-  Tại thời điểm phạm tội chưa gây ra được thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần và thiệt hại phát sinh sau một khoảng thời gian dài và do nhiều yếu tố tác động khác gây ra.

4. Thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra: chủ thể phạm tội đã không thực hiện những biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả mà ý thức để mặc hậu quả tiếp tục xảy ra.
Để triệt tiêu các biện pháp này, pháp nhân cần phải có các điều kiện sau:
- Khi chủ thể phạm tội không kịp thực hiện những biện pháp khắc phục nhằm ngăn chặn thiệt hại xảy ra, không mong muốn thiệt hại xảy ra.
- Thiệt hại không thể ngăn chặn được dù có áp dụng những biện pháp đó.
- Thiệt hại gây ra chưa lớn và chưa đủ để chủ thể phạm tội áp dụng những biện pháp này.
- Những biện pháp này được áp dụng nhưng lại gây ra thiệt hại lớn hơn thiệt hại ban đầu.

- Chủ thể phạm tội không có mục đích để mặc cho thiệt hại tiếp tục xảy ra.


Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có