Chuyển đến nội dung chính

TỘI PHẠM PHÁP NHÂN TRONG LĨNH VỰC HÀNG HÓA (PHÂN 7)


e. Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả: 
Để tránh tình trạng bị khởi tố hình sự, pháp nhân cần:
·        Điều kiện về chủ thể:
-                 Một là, tẩu tán trách nhiệm này cho một cá nhân, tổ chức khác mà đảm bảo yếu tố “không cấu kết”, “không giúp sức”, “không che giấu”.
-                 Hai là, triệt tiêu tư cách chủ thể: thành lập một tổ chức dự phòng không phải là pháp nhân thương mại.
-                 Ba, triệt tiêu tư cách pháp nhân: việc thực hiện hành vi phạm tội vì không nhận thức được hành vi của mình là phạm tội, không ngăn chặn kịp thời và hậu quả vẫn xảy xa không như mong muốn.
·        Điều kiện về khách thể:
Chỉ duy nhất một yếu tố trong khách thể có thể triệt tiêu được dấu hiệu hình sự, đó chính là đối tượng tác động của các quan hệ xã hội:

-         Một là, phải đảm bảo đúng tiêu chí về khái niệm của vật thể thì mới có thể khởi tố hình sự được. Trong đó, tại khoản 8 Điều 3 Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động  thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì: “Hàng giả” bao gồm các điểm a, b, đ, e, g, h và không thuộc phạm vi quy định của Điều 193 hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm”, Điều 194 “hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh”, Điều 195 “hàng giả là thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc hú y, thuốc bảo vệ hực vật, giống cây trồng, vật nuôi”:
a) Hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký;
b) Hàng hóa có hàm lượng định lượng chất chính hoặc tổng các chất dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
đ) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả mạo tên thương nhân, địa chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên thương mại hoặc tên thương phẩm hàng hóa; giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của thương nhân khác;
e) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo về nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa;
g) Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005;
h) Tem, nhãn, bao bì giả.
-         Hai là, phải đảm bảo đúng tiêu chí về định mức:
§  Hàng hóa có hàm lượng định lượng chất chính hoặc tổng các chất dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
-         Ba là, phải đảm bảo đúng tiêu chí về trị giá của hàng giả:
§  Hàng giả trị giá từ 20.000.000 đồng trở lên tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;
§  Hàng giả trị giá dưới 20.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính đã bị kết án về các tội vận chuyển trái phép hàng hóa, sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, hàng giả, chưa được xóa án tích;
§  Hàng giả tương đương với với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá:
+ Trên 30.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;
+ Dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính đã bị kết án về các tội vận chuyển trái phép hàng hóa, sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, hàng giả, chưa được xóa án tích;
§   Hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả với số lượng lớn, giá trị lớn hoặc số lượng chưa lớn nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính, đã bị kết án về các tội vận chuyển trái phép hàng hóa, sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, hàng giả, chưa được xóa án tích.
·        Điều kiện về mặt khách quan:
-         Một là, phải đảm bảo đúng khái niệm về mặt hành vi sản xuất, buôn bán thì mới khởi tố được:
§  Hành vi sản xuất hàng giả: là hành vi tạo ra các loại hàng hóa, sản phẩm có nhãn hiệu, kiểu dáng, nguồn gốc xuất xứ hàng hóa giống như những sản phẩm, hàng hóa được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường (tức là hàng thật). Chủ thể phạm tội có thể tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất hàng giả hoặc chỉ tham gia vào một công đoạn nào đó của quá trình làm ra hàng giả như chỉ lắp ráp các bộ phận hoặc đóng gói hoặc dán nhãn hiệu để tạo ra hàng giả.
§  Hành vi buôn bán hàng giả: là hành vi mua đi bán lại những hàng hóa đã thành phẩm hoặc những bộ phận, chi tiết mà biết rõ là hàng giả nhằm thu lợi bất chính.
-         Hai là, hành vi đó triệt tiêu được điều kiện về xử phạt vi phạm hành chính hay không? Là, hành vi chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc chưa bị kết án về các tội vận chuyển trái phép hàng hóa, sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, hàng giả; đã được xóa án tích hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi khác không phải là hành vi buôn lậu hoặc là hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, hàng giả.
-         Ba là, hậu quả do hành vi gây ra là những thiệt hại vật chất và phi vật chất như tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,...; xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu công nghiệp, gây thiệt hại đến lợi ích vật chất, uy tín của doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hóa là hàng thật; và không dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm này mà chỉ dùng để định khung hình phạt. Vì vậy phải đảm bảo về định mức của thiệt hại gây ra:
§  Làm chết người.
§  Gây tổn hại sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên;
§  Gây tổn hại sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này là trên 31%;
§  Gây thiệt hại về tài sản trên 100.000.000 đồng.
-         Bốn là, hành vi tác động là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả. Tuy nhiên việc vẫn thực hiện đúng hành vi nhưng không dẫn đến hậu quả như phân tích trên thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
-         Năm là, triệt tiêu thời điểm hoàn thành phạm tội: là thời điểm hàng giả được chưa thành phẩm, chưa gây ra sự nhầm lẫn lừa dối cho khách hàng hoặc chưa gây ra thiệt hại như trên.
-         Sáu là, triệt tiêu địa điểm phạm tội: hành vi phạm tội chưa qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại.
-         Bảy là, tẩu tán mức độ hình phạt phải chịu nếu chủ thể phạm tội có những đóng góp tích cực trong việc thực hiện các chính sách xã hội.
·        Điều kiện về mặt chủ quan: 
Lỗi là lỗi cố ý (cố ý trực tiếp), động cơ, mục đích phạm tội là nhằm thu lợi nhuận bất chính. Tuy nhiên vẫn có thể tẩu tán trách nhiệm này bằng cách:
-         Hành vi phạm tội chưa hoàn thành đến mục đích cuối cùng là gây nhầm lẫn, lừa dối người tiêu dùng.
-         Có thể triệt tiêu được động cơ về hành vi phạm tội nếu chủ thể phạm tội không nhằm mục đích chính là thu lợi nhuận; hoặc thu lợi nhuận chưa lớn (dưới 100.000.000 đồng).

-         Yếu tố lỗi có thể được triệt tiêu nếu chủ thể phạm tội không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, không ngăn chặn kịp thời và không mong muốn hậu quả xảy ra.

Xem thêm các bài viết khác tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Xác định quan hệ trong tranh chấp đất đai

          Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai, việc bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, xung đột ý kiến là điều khó tránh khỏi. Khi xảy ra mâu thuẫn về mặt lợi ích, xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai sẽ được gọi là tranh chấp đất đai. Quan hệ tranh chấp đất đai I. Những vấn đề lý luận liên quan đến tranh chấp đất đai 1. Khái niệm tranh chấp đất đai         Đất đai là loại tài sản đặc biệt, là tài nguyên của quốc gia được nhà nước giao cho người dân để sử dụng, quản lý. Đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân. Điều này đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013 và quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Đất đai 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.         Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào các chủ thể cũng có