Chuyển đến nội dung chính

THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VỀ VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA THEO CHỨNG TỪ VẬN CHUYỂN


1. Về chứng từ vận chuyển
Thực tiễn, vận đơn là một trong những chứng từ quan trọng nhất của mua bán khi hàng hoá được vận chuyển bằng đường biển, vận đơn đường biển có những tác dụng chủ yếu:
Thứ nhất, vận đơn là cơ sở pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa người xếp hàng, nhận hàng và người chuyên chở.
Thứ hai, vận đơn là căn cứ để khai hải quan và làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá thành trách nhiệm của mình như quy định trong hợp đồng mua bán ngoại thương (vận đơn).
Thứ ba, vận đơn cùng các chứng từ khác của hàng hoá lập thành bộ chứng từ thanh toán tiền hàng.
Thứ tư, vận đơn là chứng từ quan trọng trong bộ chứng từ khiếu nại người bảo hiểm, hay những người khác có liên quan.
Thứ năm, vận đơn còn được sử dụng làm chứng từ để cầm cố, mua bán, chuyển nhượng hàng hoá ghi trên vận đơn.
Tuy vậy, dần dần vận đơn đã bộc lộ nhiều nhược điểm như:
Thứ nhất, nhiều khi hàng hoá đã đến cảng dỡ hàng nhưng người nhận không có vận đơn (B/L) để nhận hàng vì thời gian hành trình của hàng hoá trên biển ngắn hơn thời gian gửi vận đơn từ cảng xếp hàng đến cảng dỡ hàng.

Thứ hai, B/L không thích hợp với việc áp dụng các phương tiện truyền số liệu hiện đại tự động (fax, teleax...) bởi việc sử dụng B/L trong thanh toán, nhận hàng.... đòi hỏi phải có chứng từ gốc.
Thứ ba, việc in ấn B/L đòi hỏi nhiều công sức và tốn kém bởi chữ in mặt sau của B/L thường rất nhỏ, khoảng 0,3 mm để chống làm giả.
Thứ tư, việc sử dụng B/L có thể gặp rủi ro trong việc giao nhận hàng hoá (nếu vận đơn bị mất cắp) vì B/L là chứng từ sở hữu hàng hoá.
Về giấy gửi hàng đường biển, tuy khắc phục được một số yếu điểm của vận đơn nhưng không phải là không có những hạn chế như cản trở mua bán quốc tế (vì giấy gửi hàng đường biển rất phức tạp và khó khăn khi người vận chuyển và người nhận hàng là những người xa lạ, mang quốc tịch khác nhau; luật quốc gia của một số nước và công ước quốc tế chưa thừa nhận giấy gửi hàng đường biển như một chứng từ giao nhận hàng.... Ở Việt nam, việc áp dụng giấy chứng nhận đường biển vẫn còn rất mới mẻ, mặc dù đã có cơ sở pháp lý để áp dụng giấy gửi hàng đường biển. Tuy nhiên, vẫn chưa có các điều khoản hướng dẫn rõ ràng về việc sử dụng giấy gửi hàng đường biển. 
2. Việc chứng minh lỗi trong tổn thất hàng hóa
Trong trường hợp có tổn thất, người vận chuyển muốn được miễn trừ trách nhiệm thì phải chứng minh được rằng tổn thất đó xảy ra do một trong những nguyên nhân mà pháp luật đã quy định. Trong thực tiễn hàng hải, một trong những nguyên nhân người vận chuyển sử dụng nhiều nhất là khuyết tật ẩn của hàng hóa.
Việc chứng minh tổn thất trong trường hợp giao hàng không đủ, tức là hàng đã được bốc lên tàu ít hơn số lượng được ghi trong vận đơn là điều không dễ dàng. Thường gặp trong vận chuyển bằng tàu chở dầu. Trong trường hợp này, nghĩa vụ chứng minh tổn thất hàng hóa thuộc chủ sỡ hữu hàng bởi chủ sỡ hữu thường là nguyên đơn, tuy nhiên cũng không cần thiết phải chứng minh nguyên nhân tổn thất nếu tổn thất không đáng kể. Trong trường hợp tổn thất xảy ra do lỗi hỗn hợp, tức là do lỗi của người vận chuyển và lỗi của người thuê vận chuyển, thì người vận chuyển chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi tổn thất do lỗi của người vận chuyển hay người làm công đại diện của họ gây ra. Ở đây, người vận chuyển phải chứng minh mức độ thiệt hại do hư hỏng, mất mát hay giao hàng chậm gây ra không phải do lỗi của người vận chuyển.
3. Nghĩa vụ thanh toán cước phí
Trong thực tiễn hàng hải, vấn đề bên vận chuyển có thể yêu cầu ai thanh toán cước phí có ý nghĩa thực tế rất quan trọng. Câu hỏi này không thể trả lời bằng cách viện dẫn hợp đồng, theo đó người bán bàn với người giao hàng. Hợp đồng này điều chỉnh trách nhiệm cuối cùng đối với cước phí vận chuyển giữa các bên trong hợp đồng mua bán nhưng không có ý nghĩa đối với nghĩa vụ thanh toán cước phí cho bên vận chuyển.
Thông thường, nghĩa vụ thanh toán cước vận chuyển được thỏa thuận trực tiếp trong vận đơn. Thực tiễn nếu trong vận đơn không quy định trực tiếp ai là người có nghĩa vụ thanh toán cước phí thì áp dụng các quy tắc:
-      Trước hết, người thuê vận chuyển có nghĩa vụ thanh toán bởi vì bên vận chuyển ký hợp đồng vận chuyển trực tiếp với họ. Không quan trọng người thuê có phải là người chiếm hữu hàng hóa hay không tại thời điểm bốc hàng. Hoàn toàn mang tính hợp đồng.
-      Người nhận hàng có nghĩa vụ thanh toán cước phí vận chuyển nếu được ghi trong vận đơn với tư cách là người nhận hàng và họ có quyền sỡ hữu đối với hàng hóa đó. Hoặc họ nhận lấy nghĩa vụ thanh toán.
-      Người bán có nghĩa vụ thanh toán cước phí nếu sử dụng quyền ngừng vận chuyển khi hàng hóa đang trên đường đi.
4. Ưu và khuyết điểm của hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển
Ưu điểm của hợp đồng này là chủ động, chở được bất cứ loại hàng nào. Tính được chi phí vận chuyển trước khi ký kết hợp đồng mua bán để xác định điều điều khoản giá cả trong hợp đồng mua bán vì biết trước được biểu cước. Người thuê tàu dự kiến được thời gian gửi, nhận hàng vì tàu chạy theo lịch trình có trước. Thủ tục thuê tàu đơn giản.
Nhược điểm, giá cước thường cao. Không được hoàn toàn tự do thỏa thuận do trong vận chuyển theo chứng từ thường hai bên không ký kết với nhau dưới hình thức văn bản hợp đồng mà chỉ ký phát vận đơn làm bằng chứng. Vận đơn thường gồm các nội dung như các định nghĩa, điều khoản chung, điều khoản trách nhiệm của người chuyên chở, điều khoản xếp dỡ và giao nhận, điều khoản cước phí và phụ phí, điều khoản giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở, điều khoản miễn trách của người chuyên chở, … Mà quy định trên vận đơn do hãng tầu in sẵn, người thuê vận chuyển không có quyền bổ sung hay sửa đổi mà mặc nhiên phải chấp nhận nó. Không linh hoạt nếu như cảng xếp dỡ nằm ngoài hành trình quy định của tàu.


 Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

ĐIỀU KHOẢN BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO ?

Điều khoản bảo hiểm hay là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất do những rủi ro hàng hải gây nên. Khi đối tượng được bảo hiểm theo điều kiện nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong đó gây nên mới được bồi thường. Nước Anh là nước xây dựng luật bảo hiểm hàng hải sớm nhất (1906 - MIA). Trong bảo hiểm hàng hóa đường biển có các bộ điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm Luân Đôn ban hàng như ICC 1963, ICC 1982 hay mới nhất là ICC 2009. Các bộ Điều khoản bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay. Dựa trên cơ sở luật này mà Việt Nam xây dựng các điều kiện bảo hiểm cơ bản gồm: QTC 1965, QTC 1990 do Bộ tài chính ban hành. Sau có QTC 1995, QTC 1998 do Bảo Việt ban hành, hay Petrolimex ban hành QTC 1998 PJCO. Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B hoặc C. Ngoài ra, tùy theo hà

Milo Và Ovaltine – Cuộc Chiến Pháp Lý Về Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

Mới đây, cộng đồng mạng chia sẻ 2 pano quảng cáo ngoài trời của 2 thương hiệu đồ uống với nội dung đối lập nhau. Trong khi thương hiệu Nestle Milo đặt slogan “Nhà vô địch làm từ Milo” với tôn màu chủ đạo là xanh lá cây thì bên kia đường thương hiệu sữa Ovaltine với tấm biển quảng cáo màu đỏ có in hình 2 mẹ con chỉ tay sang phía “đối thủ” kèm theo dòng chữ ”Chẳng cần vô địch, chỉ cần con thích”. Vấn đề này rốt cuộc là sao? Mời các bạn theo dõi bài viết. Tìm hiểu cuộc chiến pháp lý giữa hai thương hiệu đồ uống Cạnh tranh quảng cáo Milo Và Ovaltine có lành mạnh không? Nestle Việt Nam đã có công văn gửi Cục Văn hóa cơ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương để đề nghị xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm luật quảng cáo. Đối tượng mà Nestle “tố” là Công ty Frieslandcampina, đơn vị sở hữu thương hiệu Ovaltine và đang thực hiện chiến dịch truyền thông cho Ovaltine. Với nội dung công văn phía Nestle ghi rõ là Ovalti

Người thân tự ý mang xe đi cầm đồ thì có bị xử tội không

Người thân tự ý mang xe đi cầm đồ thì có bị xử tội không là câu hỏi thắc mắc của nhiều người bởi nếu họ vay mượn tài sản của mình trong thời hạn nhất định nhưng sau đó lại mang đi cầm cố ? Vậy phải làm gì để đòi lại được tài sản từ người thân, bài viết dưới đây sẽ làm rõ cho quý bạn đọc. Cầm cố tài sản trái pháp luật Quy định pháp luật về cầm cố tài sản Nội dung Điều 309 BLDS quy định: Cầm cố tài sản là việc một bên (bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Quan hệ cầm cố tài sản có những đặc điểm pháp lý như sau: ●                 Quan hệ cầm cố đòi hỏi phải có sự chuyển giao tài sản bảo đảm từ bên cầm cố sang bên nhận cầm cố quản lý trong thời hạn của hợp đồng cầm cố. ●                   Hợp đồng cầm cố tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. ●                   Quan hệ cầm đồ là một hình thức phát triển của quan hệ cầm cố man